Hoạn thư không chỉ được độc giả biết đến trong trang sách, mà đã
bước ra cuộc đời, rất quen thuộc với cuộc sống con người Việt Nam. Hiện nay,
không còn mấy những ý kiến coi đây là nhân vật tiêu biểu cho sự tàn bạo độc ác.
Trong dân gian hầu như chỉ nhìn nhận Hoạn Thư là con người có tính
ghen tuông cay nghiệt. Trong tiếng Việt, hoạn thư được dùng như một tính từ đồng nghĩa với ghen tuông.
Nhưng nếu
chỉ đánh giá Hoạn thư là biểu tượng của sự ghen tuông thì liệu có phiến diện và
thiếu công bằng. Sự thật người vợ của chàng Thúc đa tình còn mang trong
lòng biết bao nỗi u buồn bất hạnh, bị sa vào những tình huống bất đắc dĩ, khó
chịu nhất của “phận đàn bà”. Và cũng chính khả năng ứng xử
của vị phu nhân “họ Hoạn danh gia” đã tỏa sáng trí tuệ, nhân cách, đủ cho nàng
có sức sống trong mọi thời đại. Xin bàn luận về những vẻ đẹp lấp lánh
của Hoạn thư trong Truyện Kiều.
1. Thêm kẻ
thứ ba, giữ nhà êm kín
Cứ theo tiêu chí xưa thì cuộc hôn nhân của Thúc sinh
và Hoạn thư không được “môn đăng hộ đối”. Thúc sinh tuy cũng là dòng dõi
học trò, rồi bố là một nhà buôn, nhưng sao sánh được với gia thế dòng họ Hoạn danh gia, con quan Lại bộ. Họ kết tóc xe tơ chỉ do duyên phận
"Duyên Đằng thuận nẻo gió
đưa"
Chứ không phải bắt đầu từ cái nhìn “sét đánh”
tiết xuân như mối tình Kim - Kiều, hay trước còn trăng gió sau ra
đá vàng như chuyện Thúc – Kiều. Trong cuộc hôn nhân
này, có lẽ phần “hời” thuộc về chàng Thúc. Anh ta vừa được làm “phò mã”,
vừa có người nâng khăn sửa túi, trông coi cửa nhà, giàu có nết na;
dù đi xa hàng năm, không bị hờn dỗi hay lên mặt như không ít chàng có vợ tiểu
thư “danh gia vọng tộc”.
Nhưng tất cả những ưu thế hiếm có ấy cũng không đủ để
giữ chân người chồng vừa háo sắc vừa quen thói bốc rời.
Người vợ “cành vàng lá ngọc”, toàn tâm toàn ý lo việc nhà, bị rơi vào
cảnh đối mặt với kẻ “thứ ba”.
"Từ nghe vườn đã thêm hoa"
Câu
thơ của cụ Nguyễn hay nhưng với người trong cuộc thì ruột gan sát muối. Đành
rằng cảnh chồng đèo bòng thêm bà bé không lạ gì trong xã hội xưa, nhưng
chắc được mấy bà cả lấy làm dễ chịu? Tuy nhiên, ngay từ đầu, Hoạn thư cũng
không có ý làm to chuyện. Nàng ý thức về vị thế, lòng bao dung của bề trên
"Cũng dung kẻ dưới mới là lượng trên"
Và nếu ghen tuông ầm ĩ là thiếu khôn ngoan, dễ mang tiếng xấu
"Dại chi chẳng giữ lấy
nền,
Tốt chi mà rước tiếng ghen vào mình"
Tục ngữ đã từng đúc kết Ớt nào mà ớt chả cay. Tình
cảnh miệng người thì lắm tin nhà thì không mà Lửa
tâm càng dập càng nồng.
Chồng phản bội, lừa dối;
gia đình chồng lại xuôi chiều, qua mặt con dâu để cưới thêm vợ cho con
trai, chắc chắn đã đốt nóng nỗi cay đắng thất vọng và càng kìm nén càng bùng
lên dữ dội trong lòng người vợ chính danh. Cũng nên thông cảm cho những dằn vặt toan tính, hiện
lên trong đầu của phu nhân họ Hoạn
"Làm cho nhìn chẳng được nhau,
Làm cho đầy đọa cất
đầu chẳng lên!
Làm cho trong thấy nhãn tiền,
Cho người buôn ván bán thuyền
biết tay."
Hậu quả thường thấy trong tình cảnh trớ trêu
này, hoặc có chuyện trả thù, hoặc sự phá phách tung hê, hoặc nổ
ra cuộc đánh ghen đổ máu, … Kết cục, có thể, một gia đình sẽ đổ
vỡ, những người hôm qua còn đầu gối tay ấp hôm nay thành kẻ thù ra sức bêu riếu
thóa mạ lẫn nhau. Chuyện riêng gia đình thành trò cho thiên hạ cười cợt đàm
tiếu. Những điều dễ đoán đó làm ta thật bất ngờ, rất đáng nể
phục trong phương thức xử lí thông minh khéo léo của Hoạn thư. Người vợ,
trong tình huống bị phụ tình này đã làm được những việc không phải ai cũng có
thể vững tay co, giữ cho gia
đình ngoài kín trong êm như vậy.
Một loạt giải pháp, chiến thuật được Hoạn thư
thi hành
- Không đối mặt với dư luận Hoạn thư quá rõ sự chính xác của dư luận và chuyện thực nhà mình đang cần che giấu, càng chống chế càng lộ chuyện.
"Nỗi lòng kín chẳng ai hay,
Ngoài tai để mặc gió bay mái ngoài
…
Buồng đào khuya sớm thảnh thơi,
Ra vào một mực nói cười như không."
- Đối với người Mách tin ý cũng liệu bài
tâng công, thì một mặt mắng át để bảo vệ chồng.
"Tiểu thư nổi giận đùng
đùng,
Gớm tay thêu dệt ra lòng trêu ngươi!
Chồng tao nào phải như ai,
Điều
này hẳn miệng những người thị phi."
Một mặt trấn áp mạnh tay, "đứa thì vả miệng đứa thì bẻ răng". Và kết quả bước đầu đã đạt được trong ngoài kín mít như bưng, nào ai còn dám nói năng một lời.
- Khôn khéo, cố kìm nén, tránh xung đột vợ chồng trong
cuộc hồi trang của Thúc sinh. Gặp nhau sau bao ngày
xa cách, mong mỏi, còn gì tủi cực hơn khi người vợ phải nồng thắm với chồng chỉ
bằng cái vẻ bề ngoài, bên trong thì một mình gặm nhấm cái nỗi chàng ở bạc nỗi mình chịu đen. Đưa ra giải pháp hợp lí đã khó nhưng
vẫn còn dễ hơn việc thực hiện trong cuộc. Làm sao giữ được bình tĩnh khi nhìn
thấy mặt con người đen bạc ra lòng trăng hoa. Người
nhạy cảm như Hoạn thư, thật chẳng dễ chịu gì khi phải cố gắng, đêm ngày lòng những dặn lòng, hết mức kìm nén trạng thái thần kinh nóng như thùng thuốc súng. Rồi có lúc, nàng cũng không nén được, cũng
phải giở những lời đâu đâu để
gạn hỏi chuyện Lâm Truy mà dư luận đang bàn tán.
Cái mà người vợ mong chờ cũng đâu phải là quá đáng, chỉ cần được chồng
báo tin, được thú thật, để
rồi được bao dung tha thứ một cách đàng hoàng. Đáng tiếc là chàng Thúc,
không phải là tri âm tri kỉ của vợ, tưởng mọi chuyện còn kín, hơn nữa thuộc
loại nhát gan, lo sợ mọi việc đổ vỡ. Thành thử, vì sự im lặng của chàng, sau
này người vợ tốt phải mang tiếng ghen tuông cay nghiệt, còn người tình vàng đá thì
rơi vào tình cảnh nhục nhã ê chề.
Tuy nhiên, có thể nói trong trận chiến với “kẻ thức
ba”, Hoạn thư đã giành thắng lợi bảo vệ
danh dự cho mình, giữ tiếng cho chồng, cho gia đình, tránh xung đột và sứt mẻ
tình cảm với chồng, tránh bị người ngoài lợi dụng, kích động, tránh đối mặt
trực tiếp với dư luận, tránh bị sốc, cả giận mất khôn. Hoạn thư
đã đạt được ý định giữ cho gia đình ngoài kín trong êm và tạo điều kiện cho
bước quyết liệt tiếp theo.
2. Dằn mặt tình địch, dạy đức ông chồng
Tại sao Hoạn thư không giữ chồng ở
nhà mà lại giục đi Lâm Truy? Tại sao lại không thủ tiêu Thúy Kiều? Tại sao không gây sức ép để Thúy Kiều ngay từ đầu phải cao chạy xa bay? Và tại sao lại
đưa Thúy Kiều về nhà, khác gì tạo điều kiện cho lửa gần rơm?
Thực ra, Hoạn thư thừa biết bên mình hiện chỉ là cái
xác, còn hồn vía của chàng Thúc còn đang gửi ở Lâm truy. Cho
nên dù không để cho Thúc sinh đi cũng chỉ là chuyện “đười ươi giữ ống”. Thứ
hai, nếu thủ tiêu Thúy Kiều, không may lộ chuyện thì có còn giữ được chồng,
được gia đình nữa hay không? Hơn nữa Hoạn thư không phải là kiểu người ghen
tuông tàn bạo thú tính như Lữ hậu thời Tây Hán, Trung Quốc ,(biến vợ bé của
chồng thành “con người lợn”, rồi hành hạ cho đến chết. Còn nếu Thúy Kiều bỏ
trốn lúc này có chắc là Thúc sinh đã dứt tơ lòng với người tình đá vàng? Vì vậy Hoạn thư đã chọn giải
pháp bắt cóc, đem dây xích buộc chân
nàng về, để trị tội
cho bõ ghét.
Bầy Ưng
Khuyển theo lệnh chủ, đã bắt Thúy Kiều, phóng hỏa đốt nhà, tạo hiện trường giả
“người chết”. Rồi Thúy Kiều bị một phen mưa gió tan tành, bị đánh đòn thịt nát gan kinh, bị
bắt làm thị tì ở nhà quan Lại bộ, bị ép làm con hầu ở nhà Hoạn thư. Việc hành
hạ thể xác của Kiều, thừa điều kiện để xuống tay như Lữ hậu, nhưng Hoạn thư
cũng chỉ dừng đến đấy. Về cơ bản, coi như kẻ tình địch đã bị trừng trị. Trước
khi Thúc sinh về, Hoạn thư đã có phần nguôi giận đối với Thúy Kiều. Thực ra, gay gắt cay
nghiệt với Thúy Kiều chỉ là chuyện giận cá chém thớt, chứ trong thâm tâm người
mà Hoạn thư muốn bắt về trị tội, muốn cho biết tay chính là cái người thăm ván bán thuyền.
Cho nên khi nghĩ về cái sự buồn của nhà, Hoạn thư có trách là trách người đen bạc ra lòng trăng hoa; có
đau là đau nỗi chàng ở bạc… Không
khi nào hình ảnh Thúy Kiều hiện lên trực tiếp như một đối tượng chủ yếu trong
nỗi bực dọc của Hoạn thư.
Và để ép Thúc sinh “tự nguyện” trở về “chịu tội”, biện
pháp đốt nhà, tạo hiện trường “chết giả” là hiệu quả nhất. Khi người tình không
còn nữa, nỗi đau đớn, nhớ thương có phần nguôi ngoai là lúc chàng Thúc
"Chạnh lòng nhớ cảnh gia hương,
Nhớ quê chàng lại
tìm đường thăm quê."
Thời điểm tổ chức lễ “đón tiếp” được chọn ngay
khi Thúc sinh vừa tới nhà là rất có dụng ý. Không chỉ vì tâm trạng căng thẳng
sốt ruột phải ra tay lập tức, mà người vợ cao tay muốn có một cuộc chạm
trán bất ngờ choáng váng, khiến anh chồng không kịp có thông tin, không kịp trở
tay, bị bắt tận tay, bị day tận mặt mà không dám hé răng. Và chuyện phải xảy ra
đã xảy ra
"Cùng trong một tiếng tơ
đồng,
Người ngoài cười nụ người trong khóc thầm.
Rõ ràng thật lứa đôi ta,
Làm ra con ở chúa nhà đôi
nơi."
Người đánh ghen tha hồ tra hỏi bắt “kẻ
thứ ba” phải khoan, nhặt, quỳ tật mặt, mời tận tay, phải
đánh đàn, phải mời rượu. Còn kẻ trăng hoa phải phách lạc hồn xiêu như dại như ngây, gan héo
ruột đầy, càng nghĩ càng cay đắng lòng, giả
say lảng ra cũng
không xong, mắt lả chã mà
cũng không dám khóc, miệng muốn than mà phải gượng nói gượng cười.
Thật
là bi hài!
Khi không còn nén được, bật khóc vì người tình, chàng Thúc lại phải
“khai” liều là khóc vì hiếu phục…đau lòng chung
thiên. Có lẽ trên đời
này hiếm có người vợ “ điều trị” cái bệnh đen bạc của chồng một cách vừa cay độc, nặng như chì, nhẹ như bấc mà
hết sức hiệu quả như vậy.
Nhìn đôi tình nhân “quằn quại” trong cảnh con ở chúa nhà đôi nơi, nát ruột tan hồn, Hoạn
thư dường như đã bõ cơn hờn, dịu bớt nỗi đau
"Tiểu thư nhìn mặt dường đà
cam tâm
Lòng riêng tấp tễnh mừng thầm,
Vui này đã bõ đau ngầm xưa nay. "
Với Hoạn thư, ba con người trong Thúy
Kiều luôn được phân định: kẻ tình địch, bậc tài hoa, người mắc nạn. Cho nên, kẻ
tình địch thì ghét, người mắc nạn thì thương, còn
bậc tài hoa thì vừa thương vừa trọng. Lúc
trước, bớt gay gắt với Kiều vì thương tài, còn
hiện tại, vì như Hoạn thư nói với Thúc sinh, nhưng thực ra cũng là tự nhủ lòng
mình, tài nên trọng mà tình nên
thương. Rồi nàng còn công khai khen tình địch trước mặt
chồng
"Ví chăng có số giàu sang,
Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên."
Trên đời này, dễ mấy ai đủ bản lĩnh để đưa ra một lời khen về kẻ thù như vậy. Đấy chính là một
nhân cách hiếm có, là cái khuôn uy bền chắc khiến cho chàng
Thúc phải nể phục, phải sợ, phải bó tay. Việc
bố trí cho Thúy Kiều ra ở Quan âm thực
ra không phải để tiếp tục trả thù, ngoài nguyên cớ thương tài như
đã nói trên, còn là giải pháp tạm thời cách li có kiểm soát Thúc sinh với Thúy
Kiều. Nhưng quan trọng đây là nước cờ chiếu hết. Chuyện … vấn an về nhà chỉ
là phép thử cuối cùng để khẳng định lòng dạ của Thúc –Kiều. Đâu có đi vấn an,
mà tiểu thư đang nhón chân đứng nép,
kiên nhẫn đến nửa giờ nghe anh ả sụt sùi khóc than. Mãi cho đến khi nghe Kiều
hở ra ý trốn chạy, rồi Thúc sinh quyết dứt
tình, Hoạn thư mới xuất hiện. Nhìn
vẻ mặt và cử chỉ vui vẻ, mãn nguyện "Cười cười nói nói ngọt ngào", nghe lời
khen ngợi, tiếc nuối của Hoạn thư đối với tài năng của Thúy Kiều "Nghìn vàng thật cũng nên
mua lấy tài", rồi chứng kiến cảnh nàng
cùng chồng thong dong nối gót thư
trai cùng về, ta thấy người vợ thông
minh này đã nắm chắc phần thắng lợi. Việc
còn lại chỉ còn là gia ân, là tạo sơ hở giả để Thúy Kiều bỏ trốn mà thôi. Đó là
thắng lợi của trí tuệ khôn khéo, của bản lĩnh phi thường, thắng lợi của một
nhân cách cao thượng đáng khâm phục. Chính Thúy Kiều, khi nghĩ lại, hết sức
kinh hãi, nhưng cũng vô cùng cảm phục
"Thực tang, bắt được dường
này,
Máu ghen ai cũng chau mày nghiến răng.
Thế mà im chẳng đãi đằng,
Chào
mời vui vẻ, nói năng dịu dàng."
Và cũng thật đáng ghen
với chàng Thúc, một tay khoác lác, nhát gan mà số đỏ, được cả hai người phụ nữ đáng giá nghìn vàng yêu
thương và trân trọng.
3. Thoát án tử hình, chỉ ba
tấc lưỡi
Đúng là trái đất to mà cũng không khác gì miệng chén. Hai đối thủ không đội trời chung đã dứt tình năm xưa có ngờ đâu lại có ngày tái ngộ, mà tái ngộ
trong vị thế đảo chiều. Trước đây là con ở, còn
bây giờ là quan tòa và kẻ tội phạm. Khi trở thành phu nhân bên cạnh anh hùng Từ
Hải là lúc Thúy Kiều nghĩ đến ân oán trên đời, và người bị oán đầu tiên là
Hoạn thư. Như vậy, trong bao nhiêu kẻ gây ra nỗi bất hạnh cho mình, Kiều tỏ ra
ấm ức, căm ghét Hoạn thư nhất. Kiều không giấu nổi vẻ cay cú khi nói chuyện với
Thúc sinh
"Vợ
chàng quỷ quái tinh ma,
Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau."
Cũng
nên thông cảm cho Kiều, nhưng dù sao đây cũng là chỗ nông cạn, kém cỏi của nàng
so với Hoạn thư. Về phía Hoạn thư, có thể coi là một thử thách
trí tuệ và bản lĩnh người phụ nữ tài ba này. Nhìn cử chỉ, nghe giọng ngọt nhạt
mỉa mai đay nghiến của Thúy Kiều:
"Thoắt trông nàng đã chào
thưa,
Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây.
Đàn bà dễ có mấy tay,
Đời xưa
mấy mặt đời này mấy gan.
Dễ dàng là thói hồng nhan,
Càng cay nghiệt lắm càng
oan trái nhiều.”
Hoạn thư, người đang đối mặt với tình thế ngàn cân treo sợi tóc. Không có thời
gian để nghĩ suy cân nhắc, không có bố mẹ để bàn bạc nhờ vả như lúc ứng
phó với anh chồng phụ bạc. Cũng chẳng trông cậy gì được ở anh
chồng mặt như chàm đổ mình dường dẽ run. Sống chết giờ đây chỉ trong khoảnh
khắc và phụ thuộc hoàn toàn vào sự lanh lợi khôn khéo của bản thân. Và diễn
biến phiên tòa đã khẳng định phẩm chất ấy của Hoạn thư. Dù lúc đầu hồn lạc phách siêu, choáng váng trước một bản án nặng nề,
Hoạn thư vẫn còn đủ can đảm để khấu đầu dưới trướng liệu
điều kêu ca.
Rằng:
“Tôi chút phận đàn bà,
Ghen
tuông thì cũng người ta thường tình.
Nghĩ cho
khi các viết kinh,
Với khi
khỏi cửa dứt tình chẳng theo.
Lòng
riêng riêng những kính yêu,
Chồng
chung chưa dễ ai chiều cho ai.
Trót đà
gây việc chông gai,
Còn
nhờ lượng bể thương bài nào chăng.”
Có thể thấy lời bào chữa ngắn chỉ là tám câu lục bát,
nhưng đã bao gồm bốn luận điểm rất có tình có lý thật khó bác bỏ.
- Khẳng định mình vô tội, cái
mà quan tòa quy tội: “kẻ cắp”, quỷ quái tinh
ma, thói hồng nhan, cay nghiệt lắm, thực
ra chỉ là chuyện ghen tuông thường tình của đàn bà. Luận điểm vừa bác lại cáo
trạng, vừa tác động đến tâm lí của quan tòa, cũng là một hồng nhan, không
thể không đồng cảm.
- Kể công, nêu chuyện khi các viết kinh, ngầm
nhắc lại công trạng của mình đối với Thúy Kiều, cho ra ở các Quan âm, không
phải làm thị tì. Đến khi bỏ trốn, cũng gác bỏ thù oán, không truy bắt. Hoạn thư còn ý tứ không tố rõ việc mất cắp đồ kim ngân, tránh làm cho Thúy Kiều
mất mặt. Những sự
việc trên chính quan tòa là nhân chứng nên không thể không thừa nhận.
- Chất vấn, khi bị rơi vào cảnh chồng chung, đã ai nhường cho ai? Câu hỏi có tính
chất khẳng định hướng vào Thúy Kiều, người đã từng trải nghiệm cái cảnh giấm chua. Khiến cho nàng Kiều, dù bây
giờ đang ngồi ghế quan tòa cũng không thể không đặt mình vào hoàn cảnh ấy mà
suy ngẫm.
- Thừa nhận gây ra việc chông gai, xin quan tòa rộng lượng tha
thứ. Bị
cáo khôn khéo tận dụng “tình tiết giảm nhẹ” (thành khẩn nhận tội), vừa tranh
thủ cảm tình của quan tòa (khen người xét xử có lượng bể); vừa gây được ấn tượng chừng
mực (chỉ xin thương bài nào chăng).
Chắc rằng quan tòa không thể không vui lòng, dù có biết được “nịnh khéo”.
Quả thật, “văn bản bào chữa” là một bài văn nghị luận
mẫu mực, lời mạch lạc khúc chiết, ý sắc
sảo trí tuệ, lập luận chặt chẽ lô-gic, tình kín
đáo chân thành, thái độ nghiêm túc khiêm tốn. Và điều mấu chốt
là bị cáo đã đẩy quan tòa vào thế bị động như Thúy Kiều đã tự nhận" Làm ra mang tiếng con người nhỏ nhen".
Không phải ngẫu nhiên mà Thúy Kiều đã phải công khai
khen kẻ cựu thù của mình. Khôn ngoan nhất mực, nói
năng phải lời, và lập tức cho hủy bản án tử hình.
Rõ ràng, đây không chỉ là văn chương mà là bản lĩnh,
là trí tuệ, là nhân cách đã cứu Hoạn thư thoát chết.
Nếu như ở Thúy
Kiều chủ yếu lấp lánh vẻ đẹp của tài hoa nhan sắc, của tâm hồn, thì ở Hoạn thư
chủ yếu tỏa sáng vẻ đẹp của một trí tuệ khôn khéo, một bản lĩnh phi thường.
Nhưng điều đáng nói là, cách ứng xử cao thượng đầy nhân tính, kể cả với kẻ thù,
là ánh hào quang rực rỡ tôn vinh hai nhân vật phụ nữ độc đáo nhất trong
thiên truyện bất hủ này.
Em Hoạn thư
Đăng nhận xét