Lý thuyết của Erikson (1959)
Về phát triển tâm lý
xã hội có tám giai đoạn riêng biệt. Giống như Freud, Erikson giả định rằng ở
mỗi giai đoạn phát triển đều có khủng hoảng xảy ra. Theo thuyết ông viết vào
năm 1963, các cuộc khủng hoảng có tính chất tâm lý xã hội bởi vì chúng có liên
quan đến nhu cầu tâm lý cá nhân mâu thuẫn với nhu cầu của xã hội.
Theo lý thuyết, mỗi
giai đoạn hoàn thành, thành công tạo nên kết quả là một nhân cách lành mạnh và
thu thập những đức tính căn bản. Những đức tính này là thế mạnh đặc trưng mà
cái tôi (ego) có thể sử dụng để giải quyết cuộc khủng hoảng đến sau.
Thất bại trong việc
hoàn thành một giai đoạn có thể dẫn đến việc giảm khả năng hoàn thành các giai
đoạn tiếp theo và còn dẫn đến nhân cách và cảm nhận về bản thân không lành
mạnh. Các giai đoạn này, tuy nhiên, có thể được giải quyết thành công sau này.
Tin tưởng và ngờ vực
Có phải thế giới này
là một nơi an toàn hoặc là nó đầy rẫy những chuyện khó lường và có những tai
họa chực chờ xảy ra?
Khủng hoảng tâm lý xã
hội đầu tiên của Erikson xảy ra trong suốt những năm đầu của cuộc sống (giống
như giai đoạn oral – giai đoạn miệng khởi đầu theo Freud trong phát triển tâm
lý tình dục). Một trong những khủng hoảng xảy ra ở giai đoạn này là sự tin
tưởng với ngờ vực.
Trong giai đoạn này,
trẻ sơ sinh không chắc về thế giới mà chúng đang sống. Để giải quyết những cảm
giác không chắc chắn chúng thường dựa dẫm vào người chăm sóc chính của mình cho
sự quan tâm ổn định và nhất quán
Nếu sự chăm sóc mà trẻ
sơ sinh nhận được là nhất quán, có thể đoán trước và đáng tin cậy, trẻ sẽ phát
triển một cảm giác tin tưởng, thứ mà chúng sẽ mang theo đến các mối quan hệ
khác, và chúng sẽ có thể cảm thấy an toàn ngay cả khi bị đe dọa.
Thành công trong giai
đoạn này sẽ dẫn đến đức tin. Bằng cách phát triển cảm giác tin tưởng, trẻ có
thể hy vọng rằng ngay cả khi có khủng hoảng mới xảy ra thì vẫn có khả năng sẽ có
người giúp đỡ chúng. Không có được đức tin sẽ dẫn đến sự phát triển của sợ hãi.
Ví dụ, nếu sự chăm sóc
có khắc nghiệt hoặc không phù hợp, không thể đoán trước hoặc không đáng tin
cậy, thì trẻ sẽ phát triển một ý thức không tin tưởng và không có niềm tin vào
thế giới xung quanh hoặc mất niềm tin về khả năng ảnh hưởng của mình với mọi
thứ xung quanh.
Nhất quán với quan
điểm của Eriskon về tầm quan trọng của niềm tin, nghiên cứu của Bowlby và
Ainsworth đã chỉ ra chất lượng của những trải nghiệm gắn bó đầu tiên có thể ảnh
hưởng đến mối quan hệ với những người khác trong cuộc sống sau này.
Tự chủ, xấu hổ và nghi ngờ
Đứa trẻ phát triển về
thể chất và trở nên di động hơn. Trong độ tuổi từ 18 tháng đến 3 tuổi. Trẻ bắt
đầu khẳng định sự độc lập của chúng, bằng cách bước đi ra xa mẹ, nhặt đồ chơi
để chơi, và làm ra lựa chọn với những gì chúng thích mặc, ăn uống,..
Đứa trẻ khám phá ra
rằng nó có nhiều kỹ năng và khả năng, chẳng hạn như xếp quần áo và giày dép,
chơi đồ chơi,… Những kỹ năng này làm rõ sự phát triển của ý thức về độc lập và
tự chủ ngày càng tăng của trẻ. Erikson khẳng định điều quan trọng là cha mẹ cho
phép con cái của họ khám phá những giới hạn khả năng của chúng trong một môi
trường khích lệ, có thể chịu được thất bại.
Ví dụ, thay vì mặc
quần áo cho trẻ, cha mẹ biết ủng hộ thì nên kiên nhẫn cho phép trẻ cố gắng thử
cho đến khi chúng thành công hoặc yêu cầu trợ giúp.
Vì thế, các bậc phụ
huynh cần khuyên trẻ nên độc lập hơn trong khi dùng khoảng thời gian đó để bảo
vệ trẻ tránh những thất bại.
Một sự cân bằng tinh
tế được yêu cầu từ các bậc phụ huynh, phải cố gắng không làm tất cả mọi thứ cho
trẻ, nhưng nếu các trẻ không thành công ở nhiệm vụ nào đó thì không nên trách
trẻ vì những thất bại và những tai nạn (đặc biệt là khi luyện tập trẻ đi vệ
sinh). Mục tiêu là “tự kiểm soát mà không mất đi lòng tự tôn” (Gross, 1992).
Thành công trong giai đoạn này sẽ dẫn đến đức tin của ý chí.
Nếu trẻ trong giai
đoạn này được khuyến khích và hỗ trợ để trở nên độc lập, chúng sẽ trở nên
tự tin hơn và giữ vững khả năng của mình để tồn tại trong thế giới.
Nếu trẻ em bị chỉ
trích, quá kiểm soát, hoặc không có cơ hội để khẳng định mình, chúng bắt đầu
cảm thấy không đủ khả năng để tồn tại, và sau đó có thể trở nên quá phụ thuộc
vào người khác, thiếu lòng tự tôn, và cảm thấy có một cảm giác xấu hổ hay nghi
ngờ vào khả năng của mình.
Chủ động và tội lỗi
Khoảng ba tuổi và cho
đến năm tuổi, trẻ em khẳng định mình thường xuyên hơn. Đây là giai đoạn đặc
biệt sống động, là những năm phát triển cực nhanh trong cuộc sống của một đứa
trẻ. Theo Bee (1992) đó là “thời gian của các hành động mãnh liệt và hành vi mà
các cha mẹ có thể coi là gây hấn”.
Trong thời gian này,
điểm quan trọng liên quan đến việc trẻ thường xuyên tương tác với các trẻ khác
ở trường. Trọng tâm của giai đoạn này là chơi, vì nó cung cấp cho trẻ những cơ
hội khám phá các kỹ năng giao tiếp của chúng thông qua các việc khởi xướng các
hoạt động.
Trẻ bắt đầu lên kế
hoạch hoạt động, tạo nên trò chơi, và bắt đầu hoạt động với những người khác.
Nếu có được cơ hội này, trẻ phát triển ý thức chủ động, và cảm thấy an toàn về
khả năng để dẫn dắt người khác và đưa ra quyết định của mình.
Ngược lại, nếu xu
hướng này bị chấm dứt, hoặc thông qua những lời chỉ trích hoặc bị kiểm soát,
trẻ sẽ phát triển cảm giác tội lỗi. Chúng có thể cảm thấy bản thân giống
như một mối phiền toái cho người khác và vì thế chúng chỉ có thể là người theo
sau, thiếu sự chủ động.
Trẻ có những sáng kiến
mà các bậc phụ huynh thường cố gắng ngăn cản để bảo vệ chúng. Các trẻ vượt qua
những ranh giới bị cấm cản thì điều nguy hiểm ở đây là các bậc phụ huynh sẽ có
xu hướng trừng phạt và hạn chế các sáng kiến của trẻ quá nhiều.
Ở giai đoạn này trẻ sẽ
bắt đầu hỏi rất nhiều câu hỏi với mong muốn phát triển kiến thức. Nếu cha mẹ
coi những câu hỏi của trẻ là tầm thường, là phiền toái hoặc xấu hổ hoặc những
hành vi khác của trẻ là nguy hiểm thì trẻ có thể có cảm giác tội lỗi và cho rằng
chúng “là một mối phiền toái”.
Quá nhiều cảm giác tội
lỗi có thể làm cho trẻ chậm tương tác với người khác và có thể ức chế sự sáng
tạo của chúng. Một số tội lỗi là tất nhiên cần thiết, nếu không trẻ sẽ
không biết làm thế nào để luyện tập quyền tự kiểm soát hoặc có lương tâm.
Sự cân bằng lành mạnh
giữa chủ động và cảm giác tội lỗi là rất quan trọng. Thành công trong giai đoạn
này sẽ dẫn đến đức tin của ý muốn.
Chăm chỉ (năng lực) và tự ti
Trẻ ở giai đoạn
này (từ 5-12 tuổi) sẽ được học đọc và viết, học làm toán, làm mọi thứ một
mình. Giáo viên bắt đầu có một vai trò quan trọng trong cuộc sống của trẻ khi
họ dạy chúng các kỹ năng chuyên biệt.
Ở giai đoạn này, nhóm
bạn của trẻ sẽ có ý nghĩa lớn hơn và sẽ trở thành nguồn chính cho lòng tự tôn
của trẻ. Trẻ bây giờ cảm thấy cần phải giành được sự chấp nhận bằng cách chứng
minh năng lực cụ thể có giá trị trong xã hội, và bắt đầu xây dựng niềm tự hào
về những thành tích của chúng.
Nếu trẻ em được khuyến
khích và củng cố cho các sáng kiến của mình, chúng bắt đầu chăm chỉ và
cảm thấy tự tin vào khả năng của mình để đạt được mục tiêu. Nếu sáng kiến này
không được khuyến khích, nếu nó bị hạn chế bởi cha mẹ hoặc giáo viên, thì trẻ
bắt đầu cảm thấy thua kém hơn, nghi ngờ khả năng của mình và vì vậy có thể
không đạt tới tiềm năng.
Nếu trẻ không thể phát
triển các kỹ năng đặc biệt mà chúng cảm thấy xã hội đang cần (e.g vận động) về
sau chúng có thể phát triển theo chiều hướng tự ti. Một số thất bại có thể là
cần thiết để trẻ có thể phát triển theo chiều hướng khiêm tốn. Tuy nhiên, một
lần nữa, sự cân bằng giữa năng lực và sự khiêm tốn là cần thiết. Thành công
trong giai đoạn này sẽ dẫn đến niềm tin của năng lực.
Bản ngã và nhầm lẫn vai trò
Trong suốt thời niên
thiếu (từ 12 đến 18 tuổi), quá trình quan trọng nhất, chuyển đổi từ thời thơ ấu
đến tuổi trưởng thành . Trẻ em trở nên độc lập hơn, và bắt đầu nhìn vào tương
lai dưới dạng sự nghiệp, các mối quan hệ, gia đình, nhà ở, … Các cá nhân muốn
là một thành phần của xã hội và hòa nhập vào đó.
Đây là một giai đoạn
quan trọng trong sự phát triển, trẻ phải tìm hiểu những vai trò mà chúng sẽ
chiếm giữ như một người lớn. Đó là giai đoạn các thanh thiếu niên sẽ xem xét
lại bản thân của mình và cố gắng tìm ra mình là ai. Erikson cho rằng có hai vấn
đề liên quan tới giai đoạn này là tình dục và nghề nghiệp.
Theo Bee (1992), những
gì nên xảy ra ở phần cuối của giai đoạn này là “cảm giác tái hòa nhập bản thân,
những gì ta muốn làm hoặc có được, và vai trò giới tính phù hợp của một người”.
Trong giai đoạn, hình ảnh về cơ thể bản thân của vị thành niên thay đổi.
Erikson tuyên bố rằng
người vị thành niên có thể cảm thấy khó chịu về cơ thể của họ trong một thời
gian cho đến khi họ có thể thích ứng và “hòa nhập” với những thay đổi. Thành
công trong giai đoạn này sẽ dẫn đến những đức tính trung thực.
Lòng trung thực có
liên quan đến việc một người có thể hoàn toàn chấp nhận người khác, ngay cả khi
có thể có những sự khác biệt.
Trong khoảng thời gian
này, trẻ tìm hiểu và bắt đầu hình thành bản sắc riêng, dựa trên các kết
quả của các cuộc khám phá. Thất bại trong việc thiết lập một ý thức về bản sắc
trong xã hội (“Tôi không biết những gì tôi muốn khi tôi lớn lên”) có thể dẫn
đến nhầm lẫn vai trò. Nhầm lẫn vai trò liên quan đến các cá nhân không được
chắc chắn về bản thân hoặc vị trí của mình trong xã hội.
Để giải quyết vấn đề
nhầm lẫn vai trò hoặc khủng hoảng bản ngã, một người vị thành niên có thể trải
nghiệm nhiều lối sống khác nhau (ví dụ: công việc, học tập, hoặc các hoạt động
liên quan tới chính trị). Đồng thời tạo áp lực bắt một người chấp nhận một bản
ngã có thể gây ra sự phản kháng dưới dạng chấp nhận những bản ngã tiêu cực, và
thêm vào đó là cảm giác không hạnh phúc.
Thân mật và cách ly
Xảy ra ở tuổi thành
niên (từ 18 đến 40 tuổi), chúng ta bắt đầu chia sẻ những điều mật thiết của bản
thân hơn với những người khác. Chúng ta khám phá mối quan hệ hướng tới những
cam kết lâu dài với một người nào đó hơn là thành viên trong gia đình.
Hoàn thành thành công
giai đoạn này có thể dẫn đến các mối quan hệ thoải mái và cảm giác cam kết, an
toàn và quan tâm trong một mối quan hệ. Tránh sự thân mật, sợ cam kết và các
mối quan hệ có thể dẫn đến sự cô lập, cô đơn, và đôi khi trầm cảm. Thành công
trong giai đoạn này sẽ dẫn đến đức tin của tình yêu
Sáng tạo và đình trệ
Trong suốt tuổi trung
niên(từ 40-65 tuổi), chúng ta xây dựng sự nghiệp của chính mình, ổn định trong
một mối quan hệ, bắt đầu gia đình của chúng ta và phát triển ý thức là một phần
của bức tranh lớn hơn.
Chúng ta trả lại cho
xã hội thông qua việc nuôi nấng đứa trẻ của chính mình, được hiệu suất cao tại
nơi làm việc, và tham gia vào các hoạt động và tổ chức cộng đồng.
Nếu không đạt được
những mục tiêu này, chúng ta trở nên trì trệ và cảm thấy không hiệu quả. Thành
công trong giai đoạn này sẽ dẫn đến lòng quan tâm.
Hoàn thành và thất vọng
Khi chúng ta là người
cao tuổi (65 tuổi trở lên), năng suất của chúng ta có xu hướng chậm lại và khám
phá cuộc sống như một người đã nghỉ hưu. Trong khoảng thời gian này chúng ta
chiêm ngưỡng thành quả của mình và có thể phát triển sự hài lòng về bản thân
nếu chúng ta thấy mình có một cuộc sống thành công.
Erikson tin rằng nếu
chúng ta thấy cuộc sống của chính bản thân không hiệu quả, cảm thấy tội lỗi về
quá khứ, hoặc cảm thấy rằng chúng ta đã không thực hiện được mục tiêu cuộc sống
của chính mình, chúng ta trở nên không hài lòng với cuộc sống và trở nên thất
vọng, thường dẫn đến trầm cảm và tuyệt vọng.
Thành công trong giai
đoạn này sẽ dẫn đến đức tin. Trí tuệ cho phép một người nhìn lại cuộc sống của
họ với một ý thức đóng và đầy đủ, và cũng chấp nhận cái chết mà không sợ hãi.
Đánh giá
Lý thuyết Erikson có
nhiều giá trị tốt. Nhiều người thấy rằng họ có thể liên hệ lý thuyết của ông về
các giai đoạn khác nhau của chu kỳ cuộc sống với những kinh nghiệm của riêng
họ.
Tuy nhiên, Erikson khá
mơ hồ về nguyên nhân của những sự phát triển. Những kinh nghiệm nào con người
cần phải có để thành công giải quyết những xung đột tâm lý xã hội khác nhau và
di chuyển từ giai đoạn này qua giai đoạn khác. Các lý thuyết không có một cơ
chế chung để giải quyết khủng hoảng.
Erikson (1964) thừa
nhận lý thuyết của ông có một cái nhìn tổng quan, hơn mô tả sự phát triển xã
hội và tình cảm của con người mà không giải thích đầy đủ như thế nào hay tại
sao sự phát triển này xảy ra. Ví dụ, Erikson không giải thích một cách rõ ràng
kết quả của một giai đoạn tâm lý xã hội ảnh hưởng như thế nào đến cá tính ở
giai đoạn sau.
Tuy nhiên, Erikson
nhấn mạnh công việc của mình là một “công cụ để suy nghĩ với hơn một nghiên cứu
thực trạng. Mục đích của nó sau đó là cung cấp một khuôn khổ phát triển có thể
được xem xét hơn là lý thuyết có thể kiểm chứng.
Một trong những thế
mạnh của lý thuyết Erikson là khả năng kết hợp chặt chẽ phát triển tâm lý quan
trọng trong cả vòng đời.
Mặc dù hỗ trợ cho giai
đoạn phát triển nhân cách của Erikson tồn tại (McAdams, 1999), các nhà phê bình
lý thuyết của ông cung cấp bằng chứng cho thấy sự thiếu giai đoạn riêng biệt
của sự phát triển nhân cách (McCrae và Costa, 1997).
Đăng nhận xét