Trong xã hội phương Tây, phần
lớn mọi người giả định rằng họ có cái tôi, nhưng nếu bạn hỏi họ những cái tôi
đó là gì và chúng ở đâu, thì họ khó trả lời được. Cái tôi của bạn ở đâu? Nó có hình thức
gì? Nó có nằm bên ngoài cơ thể bạn? Nó có phải là một thứ gì đó bạn từng học
được hoặc đạt được hoặc bạn được sinh ra với nó? Điều gì xảy ra với cái tôi khi
bạn đang ngủ hoặc bất tỉnh hoặc chết? Liệu bạn có nhiều hơn một cái tôi?…
Nếu bạn
được yêu cầu định nghĩa cái tôi của bạn, thì bạn sẽ nói gì? Bạn có thể nói về
công việc bạn đang làm để kiếm sống, giống như nhiều người. Bạn có thể liệt kê
những cái bạn thích và không thích, những quan điểm chính trị xã hội của bạn.
Bạn có thể nói về trình độ học vấn hoặc thu nhập của bạn…
Trong xã hội phương Tây, cách mà mọi người được học để nghĩ về
cái tôi là cái tôi phân thành 3 khía cạnh chính. Một
là Quan niệm về bản
thân (self-concept) thay
đổi theo độ tuổi và sau đó định vị. Khi nó được định vị thì nó được dùng để
đánh giá thế giới, đem đến một kiểu thấu kính thông qua đó xem mọi thứ không
phải-là tôi (not-self). Hai là lòng
tự trọng (self-esteem) chỉ
về bạn cảm nhận ra sao về cái tôi của bạn và bản
sắc xã hội (social identity) chỉ
về sự thể hiện của cái tôi của bạn ra thế giới. Trong nền văn hóa phương Tây,
chúng ta thường xuyên kiểm soát những ấn tượng về bản thân. Có liên quan đến
lòng tự trọng và bản sắc xã hội là sự tự tin vào khả năng bản thân
(self-efficacy), nó liên quan đến cảm nhận về năng lực của chúng ta.
1.QUAN NIỆM VỀ BẢN THÂN (SELF - CONCEPT)
Nhiệm vụ mà một em bé sơ sinh phải đối mặt là học cách phân biệt
bản thân nó với phần còn lại của thế giới. Thoạt đầu, dường như không có sự
khác biệt. Ví dụ, trước 2 tuổi, trẻ không thể nhận ra bản thân nó trong tấm
ảnh. Một khi trẻ học được rằng có một cái tôi riêng biệt với những cái tôi khác
thì khi đó cái tôi bắt đầu phát triển thêm. Giới tính và Tuổi trở thành những
cách thức quan trọng để phân biệt cái tôi với những cái tôi khác, lớn tuổi hơn
hoặc nhỏ tuổi hơn, nam hoặc nữ. Vì vậy từ sớm chúng ta bắt đầu định nghĩa về
cái tôi theo những cách đó…
Sau tuổi và giới tính, cái tôi bắt đầu quan tâm đến việc so sánh
với những tài năng và kỹ năng mà những người khác có, về thể chất và trí tuệ.
Cuối cùng, phát triển một quan niệm riêng về thế giới, về bản thân và tất cả
mọi thứ đến với ý thức.
Đây mới chỉ là sự khởi đầu. Sau khi quan niệm về bản thân được
hình thành thì những cái tôi khác nhau bắt đầu phát triển. Chúng ta có thể bắt
đầu phát triển những hình ảnh khả thi khác của bản thân mà chúng ta có thể đạt
được. Chúng ta có thể nhìn thấy một cái tôi thành công hoặc một cái tôi thất
bại, chúng ta có thể thấy một nhà lãnh đạo hoặc một người đi theo, chúng ta có
thể xem bản thân mình như một ông chủ hoặc như một nhân viên, một tên tội phạm
hoặc một chiến sĩ đội quân cứu tế. Chúng ta gần như chắc chắn sẽ phát triển một
cảm nhận về một cái tôi lý tưởng (ideal
self). Đây là một quan điểm về cái tôi của chúng ta mà chúng ta
rất thích trở thành hơn là cái tôi đang là của chúng ta. Và đa số chúng ta sẽ
phát triển một cảm nhận về một cái tôi phải là (ought self). Đây là
một cái tôi được tạo nên từ những gì chúng ta tin là xã hội muốn từ chúng ta,
một cái tôi ủng hộ và duy trì những tiêu chuẩn đạo đức và pháp luật xã hội. Cái
tôi này có thể phù hợp hoặc không phù hợp với cái tôi lý tưởng của chúng ta.
Khi là những người trưởng thành, chúng ta có một hình ảnh về bản
thân rất phức tạp, hoặc hình ảnh của nhiều cái tôi khác nhau phức tạp. Khó mà
tách biệt hình ảnh này với một sự đánh giá về nó. Bạn có thích những gì bạn
biết về cái tôi của bạn? Đó có phải là một cái tôi làm bạn hài lòng, thỏa mãn?
Giữa cái tôi của bạn và cái tôi lý tưởng của bạn có một khoảng cách lớn hay
nhỏ? Nó là một cái tôi rất riêng tư (mà bạn muốn giấu) hay là bạn vui vẻ khi
cho mọi người biết được cái tôi của bạn?
2. LÒNG TỰ TRỌNG (SELF - ESTEEM)
Bạn đánh giá về cái tôi của bạn là tốt hay xấu, thích hay không
thích cái tôi đó, đó chính là vấn đề của lòng tự trọng. Tất nhiên, cứ cho là
chúng ta có nhiều cái tôi khác nhau, và sự đánh giá về cái tôi của chúng ta có
thể khác biệt từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác. Có 3 lĩnh vực chính mà con
người có xu hướng đánh giá cái tôi là: Ngoại hình, Năng lực chung và những
mối quan hệ xã hội.
Bạn nghĩ ngoại hình của
bạn đẹp như thế nào?
Bạn tin rằng, bạn làm
việc bạn đang làm tốt như thế nào?
Những kỹ năng xã hội của
bạn như thế nào?
Chúng ta có xu hướng so sánh giữa những cái tôi của chúng ta và
người khác trong 3 lĩnh vực đó. Ví dụ, bạn có thể cảm thấy khá hài lòng với
năng lực làm việc của bạn và khả năng nuôi dạy con của bạn nhưng bạn lại luôn
cảm thấy khó chịu bởi bạn quá cao hoặc quá thấp, quá gầy hoặc quá béo. Bạn có
thể ước mình có một cái mũi thẳng hơn là mũi cong, hoặc có những ngón tay dài
hơn là những ngón tay ngắn và múp.
Mặt khác, bạn có thể tương đối hài lòng với ngoại hình của bạn
nhưng lại lo lắng rằng bạn liên tục làm hỏng chuyện trong những mối quan hệ xã
hội. Bạn có thể cho rằng bất cứ khi nào bạn mở miệng là bạn lại nói điều gì đó
mà sau này bạn hối hận hoặc bạn không thể suy nghĩ đủ nhanh để đưa ra những câu
trả lời thông minh, đầy thuyết phục. Hoặc bạn có thể hài lòng về cả ngoại hình
và những kỹ năng xã hội của bạn nhưng bạn ước rằng bạn có thể giỏi thể thao hơn
hoặc thông minh hơn. Hoặc tệ nhất là bạn có thể cho rằng bạn không đầy đủ trong
cả 3 lĩnh vực, trong trường hợp đó bạn có thể bị mô tả là có lòng tự trọng rất
thấp. Nếu lòng tự trọng của bạn thấp thì khi đó bạn có thể không thành công
hoặc thành đạt.
Có 2 cách tiếp cận cuộc sống rất khác nhau, phụ thuộc vào liệu
một người cố gắng tìm kiếm thành công hay sợ thất bại. Mức độ của sự cân bằng
giữa hai điều đó dựa vào lòng tự trọng. Ví dụ, khả năng nộp đơn ứng tuyển 1
công việc mà ở đó nguy cơ không được nhận là cao, hoặc làm một bài kiểm tra ở
đó nguy cơ trượt là cao, hoặc tham gia môn thể thao có nguy cơ cao là không
thành công. Nhìn chung, người có lòng tự trọng thấp sợ thất bại nhiều hơn là
tìm kiếm thành công và do đó bảo vệ bản thân họ khỏi những thất bại có thể xảy
ra. Họ ít có khả năng ứng tuyển một công việc, làm một bài kiểm tra hoặc cạnh
tranh trong thể thao. Họ có thể gây bất lợi cho bản thân để tạo ra một thất bại
trước cả khi họ bắt đầu. Họ sẽ không thử làm một việc gì đó mặc dù biết rằng họ
có thể thành công.
Có những sự khác biệt cá nhân rất lớn trong lòng tự trọng, phần
lớn bắt nguồn từ những trải nghiệm thời thơ ấu. Một kiểu nuôi dạy an toàn, rõ
ràng, nhất quán ở đó đứa trẻ được khuyến khích cố gắng, bất kể có thành công
hay không, có thể dẫn đến sự phát triển lòng tự trọng tốt. Một kiểu nuôi dạy
mang tính chỉ trích, mâu thuẫn, không nhất quán có nhiều khả năng dẫn đến nỗi
sợ thất bại.
3. BẢN SẮC XÃ HỘI (SOCIAL IDENTITY)
Kết hợp quan niệm về bản thân và lòng tự trọng sẽ dẫn đến sự
phát triển của bản sắc xã hội. Một số thứ trong bản sắc xã hội của chúng ta là
tương đối bất biến. Những ví dụ rõ ràng nhất cho điều này là giới tính, học
vấn, nghề nghiệp và ngôn ngữ, dù chúng có thể thay đổi. Cũng có một số đặc điểm
bền vững của hành vi hoặc tính cách. Kết hợp tất cả những điều này lại với nhau
và đây là cái làm cho một người là độc đáo, duy nhất.
Xuyên suốt cuộc đời, tất cả mọi người đều trải qua những cuộc
khủng hoảng bản sắc xã hội khác nhau. Có 2 kiểu khủng hoảng chính.
- Kiểu đầu tiên chỉ về sự thiếu hụt, ở đó
những giá trị mà người đó lưu giữ trước đây bị từ chối, khiến người đó rơi
vào tình thế không thể đưa ra quyết định;
- Kiểu thứ hai đến từ sự xung đột giữa những
khía cạnh khác nhau bản sắc xã hội của một người. Ví dụ như một người cố gắng
hoàn thành hai mục tiêu đối lập nhau (Hợp tác và Cạnh tranh).
Những kiểu khủng hoảng đó trong bản sắc xã hội có xu hướng xảy
ra tại những thời điểm của sự thay đổi xã hội, những thay đổi chính như trưởng
thành, hôn nhân, làm cha mẹ và nghỉ hưu. Trong từng trường hợp, có sự biến động
đột ngột về xã hội và bản sắc xã hội của một người bị buộc phải thay đổi.
NIỀM TIN VÀO KHẢ NĂNG CỦA BẢN THÂN (SELF –
EFFICACY)
Chúng ta đều có một cảm nhận về những năng lực, khả năng của
riêng chúng ta. Cảm nhận này mang lại cho chúng ta một niềm tin rằng chúng ta
hoạt động hiệu quả ra sao. Self-efficacy của bạn càng cao thì bạn càng làm việc
tốt.
Việc nuôi dạy là quan trọng đối với mức độ self-efficacy của một
người. Việc nuôi dạy nhấn mạnh thành công hơn thất bại có nhiều khả năng dẫn
đến một cảm nhận về self-efficacy lớn hơn. Đến lượt nó, một cảm nhận về
self-efficacy tốt giúp tăng thành tích vì nó khiến người đó kiên trì hơn. Vì
một người càng kiên trì trong một việc gì đó thì càng có nhiều khả năng thành
công.
Chúng ta có thể đánh giá hoặc đo lường self-efficacy của một
người không? Có một cách để làm điều này là so sánh những thành tựu của một
người với những thành tựu mà họ khao khát, hoặc so sánh những sự khác nhau giữa
những cái tôi thực tế của họ (actual self) và những cái tôi lý tưởng của họ
(ideal self).
THAY ĐỔI VÀ PHÁT TRIỂN VỀ CÁI TÔI VÀ BẢN SẮC
Nhiều nhà tâm lý học xem quan điểm về cái tôi là trung tâm của
những quan điểm của họ về thân phận con người. Nhà tâm lý học đáng chú ý nhất
trong số đó là Carl Rogers (1961) đưa ra một lý thuyết về Nhân cách dựa trên
cái tôi, một lý thuyết có những nhánh quan trọng cho kiểu trị liệu tâm lý mà
ông phát triển. Ông cho rằng, một mục tiêu chính trong cuộc sống của chúng ta
là duy trì cảm nhận về bản thân trong bất kỳ việc gì chúng ta làm để phát
triển, hướng đến sự thể hiện được đầy đủ tiềm năng của mình
(self-actualisation).
Rogers cho rằng quan điểm về một nhân cách thể hiện được đầy đủ
tiềm năng của mình ám chỉ một sự tăng trưởng dần dần của cái tôi. Do
đó, một người thể hiện được đầy đủ tiềm năng của mình có 5 đặc điểm chính
sau:
1.
Họ phát triển đều đặn, vững chắc;
2.
Họ cởi mở trước kinh nghiệm và không
phòng vệ– họ xem những
điều mới mẻ như là những cơ hội hơn là những vấn đề rắc rối;
3.
Họ tin tưởng bản thân họ, tìm kiếm
chỉ dẫn nhưng
đưa ra những quyết định của riêng họ;
4.
Họ có những mối quan hệ hòa thuận với những người khác
mà không có nhu cầu cần được mọi người yêu thích;
5.
Họ sống hoàn toàn trong hiện tại,
không chìm đắm trong quá khứ cũng như mong đợi tương lai. Điều này
không có nghĩa là họ không lập
kế hoạch,
nhưng một khi họ lập ra bất
kỳ kế hoạch
nào, người thể hiện được
đầy đủ tiềm
năng của mình vẫn luôn sống trong hiện tại.
Dù những quan điểm đó phần lớn nói về sự phát triển của cái tôi
thông qua sự thể hiện được đầy đủ tiềm năng của mình, thì quan điểm sống trong
hiện tại chỉ về sự tiêu diệt cái tôi, dẫu chỉ tạm thời. Nếu
một người hoàn toàn đắm mình vào hiện tại thì khi đó cái tôi biến mất.
Rogers cũng nhấn mạnh rằng tất cả mọi người có một nhu cầu cơ
bản là được quan tâm tích cực vô điều kiện. Chúng
ta đều khao khát tình yêu, sự thuộc về, sự chấp nhận dù người thể hiện được đầy
đủ tiềm năng của mình nhận ra điều này là không thể có được từ tất cả mọi
người. Lần duy nhất mà bạn được trải nghiệm sự quan tâm tích cực hoàn toàn
không có đánh giá có lẽ là trong trị liệu. Sự quan tâm tích cực vô điều kiện
gần như không thể có được trong cuộc sống hằng ngày mà bạn phải tìm kiếm nó. Nó
phải được tìm kiếm, theo đuổi và mức độ mà bạn không tìm thấy nó thì nhiều
stress và sự khó thích nghi có thể xuất hiện.
Cái tôi không bất biến mà nó thay đổi và phát triển theo thời
gian. Những khía cạnh bền lâu của cái tôi đôi khi được mô tả như những niềm tin cốt lõi (Core beliefs).
Có những niềm tin căn bản mà mỗi người chúng ta có đại diện cho thế giới quan
cơ bản của chúng ta, tô màu nhận thức của chúng ta và hành vi của chúng ta
xuyên suốt hầu như toàn bộ cuộc sống chúng ta. Ví dụ như tôi có thể tin rằng
mọi người về cơ bản là đáng tin, trong khi đó người hàng xóm của tôi có thể tin
rằng con người về cơ bản là không đáng tin. Điều này sẽ làm thay đổi cách chúng
tôi đối xử với những người chúng tôi gặp gỡ và sẽ tô màu cho tất cả những tương
tác của chúng tôi.
Bạn có thể tin rằng cách duy nhất để làm một công việc hay bất
kỳ công việc nào, là phải hoàn hảo. Nói cách khác, bạn có thể có một thiên kiến
chủ nghĩa hoàn hảo ngầm. Một lần nữa, điều này sẽ ảnh hưởng hầu như mọi thứ bạn
làm và có thể bạn đạt được ít thành tựu hơn người bên cạnh, chỉ vì bạn nghĩ
rằng bất kỳ việc gì bạn làm là không đủ tốt, do đó bạn phải dành nhiều thời
gian hơn cho nó.
Bạn có thể là kiểu người luôn luôn nhìn cái ly là nửa đầy, trong
khi người yêu của bạn luôn nhìn cái ly là vơi một nửa (lạc quan & bi quan).
Bạn có thể là kiểu người xem bất kỳ sự thay đổi nào trong hoàn cảnh sống như
một thách thức, trong khi chị bạn xem bất kỳ sự thay đổi nào như một mối đe
dọa. Những niềm tin cốt lõi đó là bản chất của cái tôi và luôn luôn đem đến một
tác động dẫn dắt trong cuộc sống. Đôi lúc chúng có thể rất hữu ích và những lúc
khác có thể kém thích nghi và làm chúng ta mắc vào những cái bẫy khác nhau
trong cuộc sống. Ví dụ như về chủ nghĩa hoàn hảo là một cái bẫy rõ ràng. Làm
mọi thứ một cách hoàn hảo nghe có vẻ tuyệt vời nhưng nó sẽ ít tuyệt vời nếu nó
đồng nghĩa với chẳng có việc gì được hoàn thành.
Những niềm tin cốt lõi có thể thay đổi và cái tôi cũng có thể
đổi thay và phát triển trong suốt cuộc đời, ở mức độ nào đó. Đa số mọi người đã
trải nghiệm được những sự thay đổi tạm thời với cái tôi của họ đến từ những
trạng thái của ý thức bị thay đổi. Những ví dụ của chuyện này xuất hiện trong
cuộc sống hằng ngày.
Cái tôi của một người hơi khác đi nếu người đó đang rất mệt so
với khi vừa trải qua một kỳ nghỉ sảng khoái. Cơn mệt nặng có thể đến do làm
việc kéo dài nhiều giờ làm thay đổi tâm trạng, nhận thức, động cơ, những khả
năng và cái tôi.
Những thay đổi tương tự với cái tôi đến từ việc uống rượu và
dùng ma túy. Muốn tạo ra một sự thay đổi tạm thời cho cái tôi là lý do tại sao
con người uống rượu và dùng ma túy. Tương tự, nếu bạn đọc những miêu tả về
những trải nghiệm của con người khi dùng ma túy, từ cần sa cho đến heroin hoặc
cocaine, hoặc nếu bản thân bạn đã trải nghiệm những loại ma túy đó thì bạn sẽ
biết được những sự thay đổi diễn ra cho cái tôi.
Rất thường xuyên, con người dùng ma túy dường như mong ước quên
được những cái tôi thường ngày của họ và thay thế chúng bằng thứ gì đó dễ chịu
hơn, ít nhất là trong một khoảng thời gian ngắn.
Có lẽ những thay đổi với cái tôi trong tạm thời rõ ràng nhất xảy
ra trong lúc ngủ. Điều gì xảy ra với cái tôi khi chúng ta mất ý thức trong lúc
ngủ? Tất cả mọi người nằm mơ hằng đêm, dù họ có thể không phải lúc nào cũng nhớ
được những giấc mơ của họ. Cái tôi trong những giấc mơ của một người có giống
với cái tôi của người đó khi thức? Dường như nó là cái tôi giống nhau, và rồi nó
có thể khác nhau. Nó có thể là một cái tôi có khả năng làm những việc mới lạ
(ví dụ như bay lượn) hoặc đạt được những thành tựu mới, một cái tôi biết thích
ứng xã hội tốt hơn hoặc một cái tôi tuyệt vọng. Vì vậy, cái tôi có thể thay đổi
khi chúng ta đang mơ nhưng vẫn có một số phần cốt lõi của cái tôi vẫn giữ
nguyên.
Một trong những thay đổi thú vị nhất với cái tôi xảy ra trong
lúc thiền định. Mục tiêu của một số kiểu thiền (bừng ngộ, vipassana…) là hủy bỏ
toàn bộ cái tôi. Trong khi thiền, người đó ngồi ở tư thế thoải mái và tập trung
vào hơi thở. Mục tiêu của thiền là gạt bỏ cái tôi cùng tất cả những khía cạnh
được học hoặc được điều kiện hóa của nó. Gạt bỏ mối bận tâm không ngừng mà hầu
hết mọi người có với quá khứ hoặc tương lai. Những cái tôi của chúng ta được
tạo nên từ suy nghĩ về những chuyện đã xảy ra hoặc những gì chúng ta tin sẽ xảy
ra, tất cả đều bị thôi thúc bởi những niềm tin cốt lõi của chúng ta. Theo quan
điểm đạo Phật, những ý nghĩ đó về quá khứ và tương lai được dựa trên những sự
gắn bó và mục tiêu của thiền là buông bỏ tất cả những sự gắn bó. Mục tiêu là
sống trong hiện tại càng nhiều càng tốt, dấn thân vào thế giới xung quanh ta ở
đây và ngay bây giờ. Quan sát quá trình thở trong cơ thể là một cách đơn giản
để bắt đầu làm điều này.
Điều gì
xảy ra cho cái tôi trong lúc thiền? Không phải cái tôi bị thay đổi, mà đúng hơn
là dường như cái tôi biến mất hoàn toàn. Nếu các giác quan của
một người hoàn toàn đắm chìm vào giây phút hiện tại thì khi đó không còn bất kỳ
cái tôi nào quan sát điều này, và bản chất cái tôi là một người quan sát và
người bình luận về cuộc sống. Cuộc sống có thể dễ dàng hơn khi không có sự quan
sát và bình luận đó.
THAY ĐỔI LÒNG TỰ TRỌNG VÀ TỰ TIN
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta mắc kẹt với những mức độ của
lòng tự trọng hoặc lòng tự tin mà chúng ta có. Có những cách nào để cải thiện
chúng?
…Ví dụ, điều quan trọng là nói với một ai đó rằng họ không cần
lúc nào cũng phải hoàn hảo. Điều này dễ dàng cho một số người trong chúng ta
hơn những người khác. Nếu bạn không thực tế, hãy nhận ra là những người xung
quanh bạn không hẳn đánh giá bạn cao hơn vì làm mọi việc một cách hoàn hảo. Họ
có thể chỉ muốn công việc được hoàn thành nhanh chóng. Do đó điều quan trọng là
hạ thấp những tiêu chuẩn của bạn, đôi lúc bằng cách nói với bản thân rằng mọi
việc không cần phải thường xuyên hoàn hảo 100%.
Những người theo chủ nghĩa hoàn hảo cũng có xu hướng là những
người hay trì hoãn. Công việc bị trì hoãn vì chúng chưa hoàn hảo hoặc không thể
hoàn thành một cách hoàn hảo. Cắt bỏ tính hay trì hoãn có thể nâng cao lòng tự
trọng của bạn. Điều này được thực hiện bằng việc lên kế hoạch, quản lý thời
gian cẩn thận và học cách xử lý với nỗi lo lắng khi mọi việc không hoàn hảo.
Một trong những thứ đập vỡ lòng tự trọng là sự
chỉ trích. Mọi người khác nhau trong cách họ ứng xử trước lời
chỉ trích; một số người ngay lập tức tin lời chỉ trích nói về họ và những người
khác thì có khả năng bỏ ngoài tai…Có một số điểm cần ghi nhớ khi bạn bị chỉ
trích, nó sẽ giúp phòng tránh sự tổn thương đến lòng tự trọng của bạn.
Nếu bạn hoàn thành một điều gì đó trong công việc ở nhà hoặc ở
bất kỳ nơi nào và có một ai đó chỉ trích bạn việc đó và họ rõ ràng đúng, thì
đây không phải là một lời bình phẩm về tính cách của bạn. Tất cả mọi người đều
mắc lỗi. Mọi người đều có thể cải thiện năng lực làm việc của họ thường xuyên.
Một lời chỉ trích thường chỉ là nói về một việc cụ thể hơn là sự công kích vào
cái tôi của một người. Giá trị của bạn, lòng tự trọng của bạn đơn giản là không
dựa vào những việc bạn làm, mà dựa vào tất cả những phẩm chất khác nhau của bạn
như sự rộng lượng, hào phóng, óc hài hước, bản chất tốt…Tất cả mọi người đôi
lúc đều bị chỉ trích và nếu lần này bạn là người bị chỉ trích, thì nó đáng để
nghĩ đến việc bạn có thể cải thiện công việc bạn đang làm ra sao khi lần tới
bạn có cơ hội. Lời chỉ trích có thể dễ dàng chuyển thành lời phản hồi có tính
xây dựng.
Và bạn cũng không buộc phải chấp nhận những lời chỉ trích vô lý.
Đơn giản là bạn không thể có được sự ủng hộ của tất cả mọi người về tất cả
những việc bạn làm.
Hình thức cực đoan của sự chỉ trích chính là sự từ chối. Sự từ
chối là một thực tế của cuộc sống xã hội. Tất cả mọi người không thể thường
xuyên được chấp nhận bởi tất cả những người khác, cho nên chúng ta không tránh
khỏi việc thỉnh thoảng mình bị từ chối. Một lần nữa, khi điều này xảy ra, điều
quan trọng cần ghi nhớ để lòng tự trọng của bạn không bị đập vỡ bởi sự từ chối.
Bạn chắc chắn không thể bị từ chối bởi tất cả mọi người và bạn cũng không thể
bị từ chối thường xuyên. Chỉ một phần con người bạn bị từ chối chứ không phải
toàn bộ con người bạn bị từ chối.
Lòng tự trọng và tự tin của nhiều người tụt xuống khi một mối
quan hệ kết thúc. Điều này không bất ngờ; nó là một hình thức cực đoan của sự
từ chối. Tuy nhiên, sẽ không có lợi cho bạn khi bạn rơi vào lối suy nghĩ rằng
một người đáng giá là một người phải đang ở trong một mối quan hệ. Mối quan hệ
làm tăng lòng tự trọng của bạn nhưng nó không phải là một yếu tố thiết yếu của
lòng tự trọng.
Một mối quan hệ tốt đẹp là rất quý giá nhưng nó không phải là
một nhu cầu cơ bản của cuộc sống như không khí, nước và thức ăn. Bạn không cần
phải ở trong một mối quan hệ thân thiết dù bạn có thể rất khao khát nó. Bạn cần
nhớ rằng sống cô độc, hoặc học cách sống cô độc, bản thân nó là một sự cố gắng
đáng giá và nó rất khác với cảm giác cô đơn. Bạn có thể cảm thấy cô đơn khi ở
trong một đám đông hoặc trong gia đình nhưng bạn cũng có thể thưởng thức khoảng
thời gian ở một mình.
Một số quan điểm cơ bản về làm thế nào để nâng cao lòng tự trọng
và lòng tự tin đến từ trị liệu nhận thức. Trong cuốn sách Beating the blues, Thase và Lang
(2004) mô tả một
quá trình 4 bước:
1.
Chấp nhận bản thân bạn. Điều này không có nghĩa là không cố gắng
để trở thành một con người tốt hơn hoặc ngày hôm nay làm tốt hơn ngày hôm qua,
mà đúng hơn là chấp nhận rằng bạn không hoàn hảo và sẽ không bao giờ hoàn hảo.
Bạn có thể tiến bộ nhưng nhìn chung con người hiện tại của bạn không quá tệ.
2.
Cách chúng ta nghĩ về bản thân mình có thể gây tổn thương cho
lòng tự trọng của chúng ta. Nhiều người có nhiều ý nghĩ tiêu cực mang tính tự động
hóa về bản thân họ mà họ nghe đi nghe lại chúng. Những ý nghĩ như ‘Tôi là một
tài xế kinh khủng, tôi suýt gây ra tai nạn’, ‘Tôi lại làm hỏng (món ăn, công việc,
bài luận…), mọi người sẽ nghĩ là tôi vô dụng…’ Điều quan trọng là thách thức những
kiểu suy nghĩ này, để xem cái gì nằm bên dưới chúng, liệu chúng có đúng không,
chúng có quan trọng không và tại sao chúng làm phiền bạn. Sau đó thay thế những
ý nghĩ tiêu cực bằng những ý nghĩ tích cực.
3.
Lòng tự trọng được cải thiện bằng cách xem xét những điểm tích cực
về bản thân. Khi bạn đang có tâm trạng chán nản, tồi tệ thì thật dễ dàng chỉ
nghĩ về những ý nghĩ tiêu cực và nhìn thấy lòng tự trọng của bạn tụt xuống. Bạn
nên cố gắng để tìm ra những điểm tích cực ở bạn, ví dụ như: ‘Tôi là một người tốt,
biết quan tâm dù tôi vừa mới mắc một sai lầm’; ‘Cô ấy có thể từ chối tôi nhưng
tôi có một vài người bạn tuyệt vời và một gia đình yêu thương.’
4.
Có lẽ mặt quan trọng nhất của việc duy trì lòng tự trọng đến từ
việc đối xử với bản thân giống như cách một người sẽ đối xử với những người
khác. Một cách để làm điều này là quan tâm đến bản thân bạn như người bạn thân
nhất của bạn và đối xử với bản thân như cách bạn đối xử với người bạn thân nhất
của bạn. Đừng dằn vặt bản thân vì những lỗi lầm, bạn sẽ không làm điều đó với một
người bạn của bạn.
Applying Psychology to
everyday life – Kenneth Strongman
Đăng nhận xét