Tổ chức Y tế thế giới
(WHO) đã định nghĩa sức khỏe gồm 3 phần: Sức khỏe thể chất (sức khỏe cơ bắp và
các cơ quan ngoại, nội, tạng); sức khỏe tâm thần (hoạt động chức năng tâm lý
như cảm giác, tri giác, cảm xúc tư duy, hành vi trí nhớ, trí năng...) và sức khỏe
xã hội (nghĩa là nói đến môi trường sống).
Trong hoạt động tâm thần (tâm lý)
hai quá trình hưng phấn, ức chế phải đảm bảo thăng bằng, nếu vì một lý do nào
đó làm cho hưng phấn quá tăng thì cơ thể tự điều chỉnh và ức chế bớt lại, hoặc bị
ức chế quá mức thì cơ thể lại điều chỉnh phải bớt ức chế và hưng phấn trở lại.
Nghĩa là hai quá trình
hưng phấn và ức chế phải luôn đảm bảo cân bằng hài hòa, có như vậy mọi hoạt động
tâm thần mới diễn ra một cách bình thường. Vấn đề này liên quan rất nhiều đến sức
khỏe tâm thần (vai trò hoạt động tâm lý) của mỗi cá thể. Đối với những người có
sức khỏe tâm thần bình thường có thể tự thích ứng và điều chỉnh được.
Học
sinh trong mùa thi cử phải học rất nhiều, thời gian ngủ rất ít, có đêm chỉ vài
giờ, thậm chí thức trắng đêm, ăn uống rất ít do không muốn ăn, trí não lại làm
việc quá nhiều. Thêm vào đó, trong đầu luôn lo lắng nếu không đỗ thì sẽ ra sao?
ông bà, cha mẹ, họ hàng, bạn bè, người yêu, v.v... sẽ coi thường mình như thế
nào? rồi tương lai, tiền đồ sẽ đi về đâu?... Một loạt vấn đề đặt ra càng làm
cho các sĩ tử vô cùng căng thẳng (stress).
Những vấn đề trên là yếu tố nguy cơ rất cao phát sinh ra bệnh
rối loạn cảm xúc mà chủ yếu là rối loạn trầm cảm (thường phát sinh sau vài tuần
thi cử hoặc sau khi nhận được kết quả thi không như mong muốn.
Các
triệu chứng chủ yếu của Rối loạn trầm cảm
Người bệnh có biểu hiện giảm khí sắc, buồn chán, bi quan, mệt
mỏi; giảm chú ý, khó tập trung, giao tiếp chậm chạp, luôn tự cảm thấy xấu hổ,
tủi nhục, bất hạnh. Một số trường hợp kết tinh thành hoang tưởng tự buộc tội là
nguyên nhân dẫn đến tự sát; người bệnh giảm hoạt động, không muốn tham gia bất
cứ việc gì, nằm, ngồi một chỗ, có khi không muốn tự chăm sóc bản thân. Hay rối
loạn giấc ngủ, chán ăn, đôi khi từ chối ăn. Thường lo âu, ám ảnh vô cớ, nghi
bệnh đau mỏi khắp mọi nơi, tức ngực, khó thở, hay nôn khan, táo bón,v.v... Có
thể suy kiệt nhanh dẫn đến tử vong.
Tóm lại, có 3 triệu chứng chính là: khí sắc trầm; mất quan tâm
thích thú và giảm năng lượng, dễ mệt dù chỉ một cố gắng nhỏ.
Các triệu chứng thường gặp kèm theo
Giảm sút sự tập trung và chú ý; giảm sút tính tự trọng, tự tin;
có ý tưởng bị tội, không xứng đáng; nhìn vào tương lai ảm đạm; ý tưởng hành vi
tự hủy hoại hoặc tự sát; rối loạn giấc ngủ; ăn ít ngon miệng...
Trong bệnh trầm cảm lại có tới 13 loại thể bệnh khác nhau do sức
đề kháng và thích ứng khác nhau của mỗi người, nguyên nhân sinh bệnh có thể
giống nhau nhưng biểu hiện thì mỗi người có thể lại bị một loại thể khác nhau
như: thể trầm cảm suy nhược, thể vật vã, thể trầm cảm mất cảm giác tâm thần,
thể trầm cảm với hoang tưởng tự buộc tội, thể trầm cảm loạn khí sắc, thể trầm
cảm sững sờ, thể trầm cảm lo âu, thể trầm cảm với hoang tưởng mở rộng, thể trầm
cảm paranoid, thể trầm cảm rối loạn cơ thể và thực vật, thể trầm cảm loạn cảm
giác bản thể, thể trầm cảm ám ảnh, thể trầm cảm nghi bệnh...
Vấn đề điều
trị cần phải phát hiện sớm, điều trị sớm, chăm sóc hợp lý. Nếu bệnh nhẹ, cần
được tư vấn, sau đó được điều trị ngoại trú có thể khỏi hoàn toàn. Nếu bệnh
nặng cần phải điều trị nội trú tích cực bằng thuốc, kết hợp với tâm lý trị
liệu...
Tóm lại, học nhiều (nhất là vào mùa thi) do ngủ ít, ăn ít, lo
lắng nhiều, đầu óc luôn căng thẳng (stress)... là các yếu tố nguy cơ cao gây ra
bệnh trầm cảm. Cần được phát hiện sớm và điều trị kịp thời, đúng phương pháp, bệnh sẽ khỏi hoàn
toàn.
Như vậy, stress do phải học nhiều, quá tải là một yếu tố nguy cơ
cao có thể dẫn tới căn bệnh trầm cảm.
Đăng nhận xét