TIN MỚI

Thứ Tư, 30 tháng 11, 2016

Gởi Anh!!!

Gởi Anh!!!

Gởi anh một chút nồng nàn
Mà nghe trong gió âm vang cuộc tình
Gởi anh một thoáng bình minh
Mang về tia nắng lung linh tim hồng
Gởi anh cả một tấm lòng
Lời thương lời nhớ chờ mong vẫn hoài
Gởi anh mái tóc buông dài
Đôi môi thơm ngát nét ngài dáng hoa
Gởi anh một thoáng yêu xa
Ngày chờ đêm nhớ xót xa dại khờ
Gởi anh một chút đợi chờ
Cho tim nhung nhớ bơ vơ thẩn thờ
Gởi anh cả một trời mơ
Mơ về phương đó có thơ với tình
Nhớ anh nhớ mãi riêng mình
Đêm về mộng mị bóng hình phương xa...!!!


Mai Doan

VÔ ĐỀ

VÔ ĐỀ

Đôi ta tình đã hư hao
Còn chăng nỗi nhớ nhạt màu không tên
Tim ơi! xin hãy ngủ quên
Cho tình theo sóng ghập ghềnh trôi xa

Mộng tình thôi hết thiết tha
Người xa ngàn dặm xót xa được gì
Câu thề ai hứa nhớ chi
Chôn vào tâm khảm xóa đi cuộc tình

Anh giờ lạc bước phiêu linh
Bỏ quên chữ nhớ chữ tình em mang
Mình em độc bước mơ hoang
Thuyền yêu tách bến lỡ làng sắc xuân

Thu về nhạt nắng mây bồng
Tim côi hờn dõi nhớ mong tìm về
Còn đâu tiếng hẹn câu thề
Bàng hoàng chợt tỉnh cơn mê qua rồi

Thế là tình đã phai phôi
Sao mình ôm nhớ mắt môi dại khờ
Ta buồn trút cạn vần thơ
Thả đi thương nhớ đợi chờ ngày qua...!!!

- Mai Doan -

Ta xa nhau thật rồi!

Ta xa nhau thật rồi
Thời gian cứ thế trôi
Trái tim buồn nhức nhối
Tình một thuở cũng phôi
Ta xa nhau thật rồi
Xin người đừng lừa dối
Hãy thật lòng như tôi
Đừng chót lưỡi đầu môi
Ta xa nhau thật rồi
Tôi giờ vẫn thế thôi
Tình kia sẽ nhạt màu
Ngày buồn cũng qua mau
Ta xa nhau thật rồi
Trái tim này thôi đau
Tình ơi xin vẫy chào
Bình yên hỡi người nhé!

- Mai Doan -


Thu tàn - Đông đến... bơ vơ lối về

Anh ơi! Thu đã vội tàn
Mùa Đông chợt đến nát tan cõi lòng
Giọt sầu mỏi mắt em trông
Ngoài hiên gió lộng tơ lòng ngổn ngang
Nhớ anh lệ đổ hai hàng
Vụn về nét chữ lỡ làng câu thơ
Chờ anh... chờ đến bao giờ
Thu tàn - Đông đến... bơ vơ lối về
Người ơi sao cứ mãi mê
Tình em còn đó, câu thề khắc ghi
Đông về ôm khối tình si
Sương rơi trên lá... đôi mi ướm sầu
Tình ta đã lỡ nhịp cầu
Tơ duyên chẳng đặng tình sâu chôn vùi
Mong người mãi mãi an vui
Trăm năm hạnh phúc ngọt bùi cùng ai
Mưa chiều thắm ướt đôi vai
Mình em ngược lối... tóc mai gió lùa...!!!

- Mai Doan -


Vô Đề

Vô Đề

Thời gian cứ thế trôi
Nỗi nhớ cũng nhạt rồi
Trái tim buồn khép lại

Sau bao ngày chênh vênh
Người ơi xin hãy quên
Nhớ nhung chỉ thêm sầu
Tình ta hai lối rẽ
Muôn đời mãi cách xa
Mùa đông rồi cũng qua
Xuân ấm sẽ tìm về
Xua tan miền băng giá
Mong người mãi an vui
Giấc mơ xưa chôn vùi
Giấu vào tận đáy tim
Tương lai mình bước tới
Dẫu ngược hướng đời nhau...!!!

- Mai Doan -


Giờ bình yên đến lạ

Giờ bình yên đến lạ

Nỗi nhớ đã nhạt nhòa
Tim yêu thôi xót xa
Tâm hồn như hoá đá
Qua rồi cơn sóng xa
Gió hát khúc tình ca
Mây trời xanh màu lá
Ôi! bình yên... đến lạ!

- Mai Doan -

TÁC HẠI CỦA TIN RÁC

Xã hội ngày nay tràn ngập thông tin với đủ loại từ báo chí, tạp chí cho đến các tập san, các bài phê bình và bình luận, các nghiên cứu khoa học và tiểu luận cho đến sách. Báo chí hiện nay hẳn nhiên là một kênh thông tin quan trọng mà hầu hết mọi người vẫn thường xuyên theo dõi. Tuy vậy, báo chí cũng có 2 loại thông tin cơ bản : những bài phóng sự điều tra và những tin tức thuần túy. Bài viết này để cập đến tác hại của tin tức như một bộ phận nhỏ của thông tin nhưng chiếm đa số sự chú ý của người dân.
Trong vài thập kỷ qua , những người có cuộc sống khá giả trong xã hội phương Tây đã bắt đầu nhận ra sự nguy hại của việc tiêu thụ thực phẩm bừa bãi : chúng gây ra các bệnh béo phì, tiểu đường… Riêng ở Mỹ, hơn 1/3 dân số mắc bệnh béo phì. Nó đã trở thành vấn nạn nhức nhối với những người dân không chỉ ở Mỹ mà còn ở các nước phát triển nói chung. Họ đã bắt đầu khắt khe hơn với vấn đề thực phẩm và cố gắng thay đổi chế độ ăn uống của mình : quan tâm xem hàng ngày mình ăn gì, loại thức ăn đó chứa nhiều đường không, chứa bao nhiêu kcal… Ở 1 khía cạnh khác, chúng ta cũng đang sống ở trong thời kỳ quá dư thừa về thông tin, nhưng hầu hết chúng ta chưa hiểu về hệ quả của việc dư thừa đó với tâm trí của mình. Thực sự thì ảnh hưởng của tin tức đối với tư duy cũng tương đồng với ảnh hưởng của chất đường đối với cơ thể. Chúng đều dễ “tiêu hóa”. Truyền thông cho chúng ta ăn từng mẩu “tin tức bọc đường” nho nhỏ, chẳng gây ra ảnh hưởng nguy hại gì nhãn tiền để ta có thể ngay lập tức nhận ra, và ta dễ dàng phớt lờ và tiếp tục nuốt chúng. Tiêu hóa từng mẩu nhỏ một, ta sẽ chẳng có cảm giác chán ăn hay bội thực. Điều đó khác xa với việc đọc những cuốn sách hoặc các bài viết dài trên tạp chí, nơi hàm lượng thông tin đậm đặc. Chúng ta có thể tiêu thụ một số lượng vô hạn của các mẩu tin vắn, và đó giống như là những viên kẹo dành cho trí não. Hôm nay, chúng ta đã đạt đến kết quả tương đồng với cái chúng ta đã đến cách đây 20 năm trong lĩnh vực thực phẩm. Chúng ta bắt đầu nhận ra rằng tiêu thụ thông tin không đúng cách có thể độc hại thế nào.
Tin tc gây lch lc
Lấy ví dụ sự kiện sau đây (mượn từ Nassim Taleb). Một chiếc xe lái qua một cây cầu, và cây cầu sập. Giới truyền thông tập trung vào điều gì? Xe. Người trong xe. Nơi ông ta đến. Nơi ông dự định đi . Trải nghiệm ông đã phải trải qua trong vụ tai nạn (nếu còn sống). Nhưng tất cả chúng chẳng đáng để chúng ta phải bận tâm nhiều. Thế thì cái gì đáng để bận tâm? Đó là tại sao câu cầy sập, đó mới chính là mối nguy hiểm tiềm tàng, có thể đang ẩn nấp trong các cây cầu khác nữa. Chiếc xe ấy hào nhoáng, nó gây ấn tượng cảm xúc mạnh, và nhân vật chính là một con người chứ không phải một vật vô tri khác. Thế nhưng điều quan trọng nhất đó chính là việc khai thác khía cạnh đó để đưa tin nhàn và tốn ít chi phí hơn nhiều so với việc đi phân tích các cây cầu.
Tin tức làm chúng ta bị lệch lạc hoàn toàn trong việc đánh giá cái gì là nguy hại và cái gì thì không. Chủ nghĩa khủng bố bị phóng đại thái quá. Stress do làm việc quá sức thì bị xem nhẹ. Ảnh hưởng của sự sụp đổ của các ngân hàng lớn thì bị thổi phồng. Trách nhiệm của những nhà dự báo kinh tế thì bị chẳng được nhắc đến. Người ta xem trọng phi hành gia quá mức. Còn y tá thì bị đánh giá thấp. Danh sách cứ tiếp diễn mãi như vậy. Bạn có nghĩ ra trong những tin tức mà giới truyền thông VN khai thác và mổ xẻ thời gian gần đây, cái gì bị thổi phồng quá mức mà những thông tin quan trọng khác bị phớt lờ không? Cứu nạn máy bay Malaysia gặp nạn? Vụ Huyền Chíp? Hôi của?
Chúng ta thường thiếu lý trí, sự bình tâm và dễ dàng bị truyền thông dắt mũi. Chứng kiến trực tiếp một vụ tai nạn máy bay trên truyền hình sẽ thay đổi thái độ của bạn đối với chính rủi ro đó, bất kể một thực tế đã được chứng mình rằng xác suất thực sự của việc rơi máy bay là cực nhỏ, và nó là phương tiện giao thông an toàn hơn ô tô, tàu hỏa rất nhiều. Nếu bạn đang nghĩ rằng ý tưởng tin tức có thể ảnh hưởng đến tư duy và thái độ của mình thật buồn cười, rằng mình hoàn toàn có thể đọc nó mà không bị nó tác động hay làm cho mình bị lệch lạc đi thì bạn đã lầm to. Những ông chủ ngân hàng và các nhà kinh tế học, những người mà đáng lý quyết định của mình phải dựa trên lý trí và các bằng chứng thực tế thay vì xu hướng của đám đông hay sự nhảy nhót nhất thời của giá cả đã cho thấy rằng con người hành động dựa trên cảm tính nhiều thế nào và ít dùng lý trí ra sao.
Aritxtốt từng nói rằng để một tâm trí có thể ngắm nghía, thưởng ngoạn một ý kiến, một quan điểm mà không phải chấp nhận, không phải tin vào nó đòi hỏi một sự giáo dục rất lớn. Vậy nếu bạn không có khả năng nhìn được tổng thể, đa chiều ở một sự kiện mình chưa hiểu thực sự rõ và không muốn để truyền thông dắt mũi, bạn phải làm gì?
Giải pháp đơn giản nhất đó chính là cắt bỏ hoàn toàn khỏi việc tiêu thụ tin tức.
Tin tc ít có giá tr
Trong số 10 nghìn tin tức bạn đã đọc trong vòng 12 tháng trở lại đây, hãy thử kể tên điều gì đã thực sự giúp bạn tư duy tốt hơn, ra quyết định khiến cho cuộc sống của bạn tốt hơn, sự nghiệp của bạn tốt hơn? “Có đọc có hơn” là một sự lừa mị to lớn. Nếu bạn là một người thực tế, hãy để kết quả ngoài cuộc sống là câu trả lời chính xác nhất, chứ đừng là một tư duy đầy cảm tính và phổ biến sau đây : “Đọc báo không có lợi ở mặt này thì có lợi ở mặt khác, chưa phải bây giờ thì là sau này”. Như đã nói, con người không lý trí như mình nghĩ, và thực sự ít người có thể giỏi trong kiểu tư duy được-mất đó. Phần lớn bạn sẽ rơi vào nhóm những người bị mất hơn là được.
Mọi người càng gặp nhiều khó khăn hơn trong việc tìm ra cái gì thực sự phù hợp cho bản thân mình, hay lớn hơn là kiểu tư duy của mình có còn phù hợp với xã hội ngày nay, với thời đại hiện giờ nữa hay không? Các tập đoàn truyền thông đưa cho bạn một giải pháp giản đơn cho câu hỏi đó : càng cập nhật những thông tin mới nhất, hiểu biết mới nhất về thế giới sẽ tạo cho bạn một lợi thế cạnh tranh to lớn so với người khác. Thế nhưng thực sự thì điều gì phù hợp với con người bạn mới giúp bạn đi đúng hướng, những điều mới nhất nhưng khiến cho bạn đi lệch khỏi bản chất của bạn chỉ tổ khiến cho bạn tốn thời gian vô ích. Tin tức không phù hợp chỉ tăng thêm tính bất lợi cho bạn mà thôi. Càng ít tiêu thụ chúng càng tốt cho bạn hơn.
Tin tc không cho bn biết được điu gì đang thc s din ra
Các mẩu tin là những cái bong bóng nhỏ nổ trên bề mặt chứ không cho bạn biết được điều gì đang tạo ra những bong bóng kia ở sâu bên dưới những gì bạn có thể nhìn thấy. Thu thập những mẩu dữ kiện đó có thể giúp bạn hiểu cách thế giới vận hành? Đáng buồn là không phải vậy. Những điều đang vận hành thế giới hay thay đổi thế giới này là những trào lưu, là những vận động ở dạng ngầm ẩn mà các nhà báo khó mà có thể phát hiện ra được.
Hãy nghĩ về những phát minh đã làm thay đổi thế giới. Trước khi chúng trở thành sự thật, trở thành một thế lực khiến giới truyền thông quan tâm đến là cả một thời kỳ dài tích lũy, nghiên cứu và phát triển trong âm thầm. Bill Gates bắt đầu được báo chí để mắt khi ông ở tầm tuổi 30, nhưng thực sự ông đã bắt đầu lập trình từ khi ông 13 tuổi. Nói cách khác một tài năng được thành hình trong lặng lẽ trong hai chục năm. Sẽ phải đòi hỏi một năng lực siêu phàm thì các nhà báo mới có thể phát hiện ra được những tài năng, những trào lưu đột phá đang âm thầm phát triển xung quanh họ. Thêm nữa, đó cũng chẳng phải việc nhà báo được trả lương phải làm. Báo chí và tin tức sẽ chỉ cho bạn biết thêm thông tin về những ai đã nổi tiếng, đã thành công  mà thôi.
“Không có tiềng kèn nào được cất lên khi những quyết định quan trọng được tạo ra. Định mệnh được tạo nên trong âm thầm”
Bạn càng tiêu hóa nhiều mẩu tin tức vụn vặt kiểu đó, bạn càng có ít hiểu biết về bức tranh toàn cảnh của vấn đề. Nếu như nhiều thông tin hơn sẽ dẫn đến thành công cao hơn trong cuộc sống thì chắc hẳn những nhà báo, những học giả hay những người giao dịch chứng khoán hay những người đọc tin tức nhiều nói chung sẽ là những người giàu có và quyền lực nhất trong xã hội. Thực tế thì khác xa như vậy.
Tin tc đc hi đi vi cơ th ca bn
Nó liên tục kích hoạt hệ viền (limbic system) thuộc não bộ . Những câu chuyện đáng sợ thúc đẩy việc phát tán của các dòng của glucocorticoid (cortisol) . Điều này làm nhiễu loạn hệ thống miễn dịch của bạn và ức chế sự phát tán của các hormone tăng trưởng . Nói cách khác, cơ thể sẽ gặp phải tình trạng căng thẳng mãn tính (chronic stress). Các mức độ glucocorticoid cao khiến cho tiêu hóa trục trặc, xương và tóc gặp trục trặc trong khả năng phát triển và tình trạng mẫn cảm với bệnh truyền nhiễm. Các tác dụng phụ có thể bao gồm sợ hãi, hung hăng, và thiếu nhạy cảm.
Tin tc làm tăng nhn thc li
Tin tức nuôi dưỡng mầm mống của một loại lỗi nhận thức phổ biến : sự củng cố thành kiến (confirmation bias). Nói như Warren Buffett: “Những gì con người làm tốt nhất là giải thích tất cả các thông tin mới làm sao cho các kết luận trước đó của họ vẫn chính xác.” Tin tức chỉ liên tục khiến bạn tin thêm vào những gì bạn đã biết trước đó. Điều đó khiến cho bạn trở nên tự tin thái quá, chấp nhận những rủi ro ngu ngốc và đánh giá sai lệch các cơ hội.
Hiện nay trên báo chí đầy rẫy những suy luận, gán ghép hết sức chủ quan và sai lệch. Nó đôi khi còn được ngụy trang bằng những gợi ý nho nhỏ, bạn nên suy nghĩ thế này, nên suy luận thế kia. Các bạn có quen thuộc với những câu chữ suy luận dạng “Công ty phá sản vì X…” “Thế giới được thay đổi bởi Y…” trong khi hoàn toàn thiếu những chứng cứ thuyết phục. Tôi đã thực sự chán ngấy khi đọc những bài báo đưa tin về 1 sự kiện diễn ra ngắn ngủn đi kèm với 1 nhận định đầy chủ quan và nguy hiểm ở cuối bài rồi. Các bạn chắc hẳn cũng chẳng xa lạ gì với điều kể trên, vậy tại sao vẫn tiếp tay cho chúng bằng việc tiếp tục đọc những tin tức kiểu đó, những tờ báo kiểu đó?
Tin tc c chế suy nghĩ
Suy nghĩ đòi hỏi sự tập trung. Muốn tập trung được bạn cần thời gian không bị gián đoạn. Tin tức được thiết kế đặc biệt để gây sao nhãng, cản trở việc tư duy của bạn. Tin tức làm cho tư tưởng của chúng ta trở nên nông cạn.
Nhưng tin tức còn tồi tệ hơn cho khả năng ghi nhớ của bạn. Có hai loại bộ nhớ : ngắn hạn và dài hạn. Khả năng của bộ nhớ dài hạn (long-range memory) là gần như vô hạn, nhưng bộ nhớ ngắn hạn (working memory)  có giới hạn rất nhỏ. Đường đi từ trí nhớ ngắn hạn đến trí nhớ dài hạn là một nút thắt cổ chai của quá trình tư duy, nhưng bất cứ điều gì bạn muốn hiểu và ghi nhớ đều phải đi qua. Bởi vì tin tức nhồi vào trí nhớ ngắn hạn quá nhiều thông tin, khiến nó trở nên quá tải, ta sẽ chẳng nhớ và hiểu nổi thông tin nào một cách đầy đủ và tường tận. Tin tức trực tuyến thậm chí còn tệ hơn. Trong một nghiên cứu năm 2001, hai học giả Canada cho thấy khả năng hiểu giảm khi số lượng các siêu liên kết (hyperlink) trong một tài liệu tăng lên. Tại sao vậy? Bởi vì bất cứ khi nào một liên kết xuất hiện, bộ não của bạn phải chia sẻ một ít trí năng của mình để phán đoán xem có click hay không. Nói cách khác báo chí và tin tức là một hệ thống được tạo nên với mục đích làm phân mảnh và rời rạc sự tập trung cũng như tư duy của bạn : Đọc mỗi thứ một tí, chỗ này một ít, chỗ kia một tẹo.
Tin tc thay đi cu trúc b não
Khi đã theo dõi một chủ đề nào đó, ta sẽ có xu hướng tìm đọc và cập nhật những diễn biến mới của câu chuyện đó. Hình ảnh một người đăng một post lên Facebook và refresh liên tục để xem có ai like hay bình luận gì không có quen thuộc với bạn không? Cảm giác chờ đợi thứ đó gì đó mới kiểu vậy không khác mấy cảm giác khi chúng ta nghiện thứ gì đó : thuốc lá, rượu, cờ bạc, ma túy…
Trước kia các nhà khoa học nghĩ rằng cấu trúc vật lý của bộ não từ lúc trưởng thành cho tới lúc chết là không thay đổi , tuy nhiên điều này đã được khẳng định là không đúng. Bộ não người, kể cả những người trưởng thành đều rất mềm dẻo và dễ thay đổi. Nơron liên tục cắt đứt các kết nối cũ để hình thành nên các kết nối với nơron mới và cấu trúc vật lý của bộ não cũng như thói quen tư duy của chúng ta sẽ thay đổi theo. Càng nghiện thứ gì, thứ đó lại càng trở thành thói quen ưa thích, cách tư duy ưa thích của chúng ta. Ngày nay một vấn nạn dễ thấy đó là khả năng mất tập trung và khó tiêu hóa nổi những bài viết dài. Chỉ sau 5-10 phút đọc là chúng ta không thể tập trung để đọc tiếp được nữa, trong số đó có cả những người trước kia đã từng là độc giả trung thành của những quyển sách dày. Cấu trúc bộ não của họ đơn giản là đã bị thay đổi vì thói quen đọc báo.
Tin tc làm tn thi gian vô ích
Nếu bạn đọc báo 15 phút mỗi buổi sáng, bạn sẽ lại tiếp tục tìm kiếm những tờ báo trong 15 phút buổi trưa, và chốc chốc mỗi 5 phút bạn lại thấy mình lên các tờ báo để tìm kiếm những thông tin mới. Cuối cùng bạn mất cả đống thời gian để tìm xem có gì mới hơn trên các tờ báo nữa hay không.
Thời đại ngày nay, thông tin không còn là một thứ thiếu thốn nữa, nhưng sự tập trung thì có. Thông tin là vô hạn, nhưng thời gian của bạn thì luôn luôn là hữu hạn. Bạn sẽ chẳng bao giờ tiêu tốn một cách vô trách nhiệm với những thứ quan trọng khác như tiền bạc, sức khỏe hay danh tiếng của mình. Vậy tại sao lại hành xử thiếu trách nhiệm như vậy với thời gian và tâm trí đến vậy?
Tin tc giết chết s sáng to
Cuối cùng, những điều chúng ta đã biết hạn chế sự sáng tạo của chúng ta. Đây là một lý do khiến các nhà toán học, nhà văn, nhà soạn nhạc và doanh nhân thường tạo ra các tác phẩm sáng tạo nhất của họ khi còn trẻ. Bộ não của họ được hưởng một không gian rộng rãi và không bị chiếm chật ních bởi những thứ vô bổ, điều chẳng giúp ích gì trong việc kích thích họ sản xuất những ý tưởng mới lạ. Tôi không biết một tâm trí thật sự sáng tạo nào như nhà văn, nhà soạn nhạc, nhà toán học, bác sĩ, nhà khoa học, nhạc sĩ, nhà thiết kế, kiến trúc sư hoặc họa sĩ mà lại là một người nghiện tin tức. Mặt khác, tôi biết một loạt các tâm trí độc ác không sáng tạo, những người tiêu thụ tin tức như thuốc phiện. Nếu bạn muốn đưa ra các giải pháp cũ, hãy đọc tin tức. Nếu bạn đang tìm kiếm những giải pháp mới, đừng đọc.
Xã hội cần báo chí – nhưng theo một cách khác. Báo chí điều tra luôn luôn là cần thiết, để phơi bày những sự thật được che dấu mà chúng ta chưa được biết. Nó cũng đưa cho chúng ta biết về các chính sách mà các tổ chức, định chế quan trọng của xã hội đang thực thi. Nhưng các mẩu tin ngắn sẽ chẳng có giá trị gì. Các bài phân tích dài và các cuốn sách chi tiết là đủ cho chúng ta và một xã hội dân chủ có thể vận hành tốt.

Tôi đã trải qua bốn năm mà không có tin tức, vì vậy tôi có thể nhìn thấy, cảm nhận và tường thuật những tác động của nó một cách trực tiếp và chân thực. Tâm trí cũng như cuộc sống của tôi ít gián đoạn hơn, ít lo lắng hơn, suy nghĩ sâu sắc hơn, nhiều thời gian hơn, nhiều hiểu biết thực tế hơn. Từ bỏ việc đọc tin tức không phải dễ dàng, nhưng nó đáng giá.

LOẠI UNG THƯ MỚI

Nếu bạn muốn thay đổi đất nước, nếu bạn đã 18 hay 20 tuổi hoặc hơn, hẳn là bạn cũng sẽ sớm trở thành những ông bố, bà mẹ. Thế nên, hãy chuẩn bị cho thay đổi, không cần biết trước đây bạn được giáo dục như thế nào, hãy chắc rằng, bạn sẽ trở thành hình mẫu mà bạn muốn con cái mình trở thành trong tương lai.
Bạn có biết lý do chính dẫn tới việc nước ta ngày càng sa sút?  Bạn biết vì sao mà đất nước cứ thụt lùi, thậm chí bây giờ thua cả Lào và Campuchia không? Nếu bạn định trả lời là chính phủ thì hãy tạm gác lại cái ý nghĩ đó. Bởi vì vấn đề là con người ở đây mang một căn bệnh nan y không thể chữa nỗi: LƯỜI!
LƯỜI VẬN ĐỘNG, TẬP THỂ DỤC
So với số người tập thể dục, thì số người không tập chiếm gấp nhiều lần, nếu không muốn nói là áp đảo hoàn toàn. Bạn không tin? Sáng thức dậy 4 giờ sáng chạy bộ. Rất nhiều ông cụ, bà già sẽ chạy cùng bạn. Số trung niên cũng rất nhiều. Còn số thanh niên thì chiếm trên đầu ngón tay thôi nhé.
Mà không tập thể dục thì chẳng đào đâu ra sức khỏe, không có sức khỏe thì làm cái gì cũng mau mệt, mau mệt thì sẽ nhanh chán, mà nhanh chán thì sẽ sớm bỏ cuộc. Những người có sức khỏe yếu thường làm mọi việc qua loa. Tin tôi đi. Họ không chịu đựng nỗi bất cứ chuyện gì hết. Sau đây tôi nên nói tiếp các kiểu lười khác là hệ lụy của lười vận động.
LƯỜI HỌC
Cái này thì khỏi nói rồi. Trừ các học sinh trường chuyên và công lập, đa số những trường khác, học sinh rất chi là lười. Khoan hãy nói đến việc kiến thức có hàn lâm hay không, có khó nuốt hay không, có kém thực tiễn hay không. Mà hãy tự hỏi, tại sao lại như vậy? Không ai chịu đựng nỗi 2 3 tiếng học bài ở nhà. Nói trắng ra là họ quá lười chịu đựng. Alan Phan đã từng nói rằng ông không hiểu tại sao một đất nước dân số vàng như Việt Nam lại có vẻ lù khù như các cụ già đến vậy.
Bạn hỏi tại sao? Hãy tạm trách Internet, Smartphone, Karaoke, Nhậu nhẹt, Lotte, Starbuck và các loại ăn chơi thời hiện đại nhé. Bạn lại hỏi tại sao nữa à? Bởi vì đó là thách thức của thời đại này. Thú vui hưởng thụ bao vây xung quanh, nhan nhản đông tây nam bắc hướng nào cũng có. Tại sao phải chịu đựng học bài khi tụi bạn đi nhậu, đi hẹn hò, đi Lotte? À, quên nữa, đừng ai nói với tôi một câu mà đứa trẻ trâu nào cũng biết: Cái nào cũng có mặt lợi, quan trọng là đừng dùng quá liều lượng. Bởi vì, không có mấy ai biết kiểm soát chính họ ở cái vùng đất này đâu.
LƯỜI LÀM
Tất cả những người chủ ở Việt Nam đều khó tính, họ thường đốc thúc công nhân của mình. Bởi vì họ biết, không đốc thúc, bọn công nhân chỉ ngồi chơi, và làm kiểu đối phó, chủ tới thì luôn tay luôn chân, chủ đi thì phì phèo điếu thuốc, thậm chí là lướt facebook chat chit nữa là đằng khác. Nếu cha mẹ bạn là người trả tiền cho công nhân, chắc bạn sẽ rõ điều đó hơn cả.
Bạn hỏi vì sao họ lười làm, họ bắt đầu lười từ khi nào? Vì sao? Vì họ chẳng có thích thú gì với công việc. Bởi vì, từ cái giây phút họ lười học, họ chẳng có kiến thức gì để giải quyết vấn đề nên họ chẳng muốn xảy ra thêm vấn đề gì nữa. Mà đấy, cách hay nhất để không có vấn đề gì để giải quyết là ngồi chơi. Làm việc thì tạo nên vấn đề, giải quyết vấn đề chính là một bước thăng tiến. Nhưng họ lại sợ gặp vấn đề biết bao. Không giải quyết được lại bị chửi, lại bị sỉ nhục, lại quê với người khác. Nên họ thà làm người nhàn rỗi tay chân, áo sạch đồ đẹp, không một vết bẩn còn hơn lấm lem mồ hôi, nhếch nhác không ai thèm dòm.
LƯỜI SUY NGHĨ
Lướt dạo hết vòng facebook là điều bạn có thể làm ngay. Nếu facebook bạn không có gì đáng để xem, không có gì để làm bạn cảm động, làm bạn thấy phải nhìn lại bản thân mình thì bạn chính là một ví dụ. Còn nếu có thông tin gì đó hay, viết về thực trạng của đất nước, về ô nhiễm môi trường, về động vật tuyệt chủng, hay các bài viết học thuật, hãy xem nó được bao nhiêu người like? À, thường thì không có bao nhiêu người like đâu. Không tin lướt ngay facebook là biết.
Chúng ta không có gì để học sao? Hay chúng ta chỉ quan tâm về tự sướng, em nào đẹp, em nào xài camera 360, anh nào GAY, chỗ nào chơi tốt, khu nào ăn ngon, quần áo chỗ nào bán đẹp? Nếu facebook của bạn không có bất cứ cái gì liên quan tới học thuật, kiến thức, thay vào đó là 90% ảnh girl xinh, trai đẹp, hãy yên tâm một cách chắc nịch rằng bạn là một trong những đứa lười suy nghĩ bậc nhất thế giới.
LƯỜI TRANH ĐẤU
Cái này thì khỏi phải nói luôn rồi. Cha chung chả ai khóc mà. Đất nước ngày càng đi xuống thì cũng mặc. Nói thật, chả ai quan tâm cả. Những người có tâm, những người làm báo cứ như những kẻ thui thủi một mình tự kỷ vậy. Bài nào họ viết ra, họ tự đọc, chả mấy ai đọc nói chi đến like và comment. Đi chơi noel xong rác thải đầy đường để phải viết lên báo, cũng chả cần thấy nhục mặt cho bản thân hay cho đất nước này, cứ thế năm nào cũng vậy, cũng lên báo, rồi cũng thôi, vì chẳng ai còn hơi sức để nói nữa.
Thờ ơ là căn bệnh của người Việt. Nếu không tin, search bài báo: “Người Việt vô cảm thứ 13 thế giới” là biết. Họ chẳng muốn tranh đấu. Họ chẳng muốn gì cả ngoài việc hưởng thụ những gì đang có. Miễn là họ không ở những vùng hiểm trở, thiên tai; miễn là họ không bị gì hết. Càng ngày, người ta càng rút về thành thị, co cụm, bạn thấy không? Cả đám ăn chơi phè phỡn với nhau, rồi chuốc độc nhau trong từng thớ thịt, dĩa cơm… Nhưng không ai muốn tranh đấu! Chẳng ai muốn cả, vì họ bận phải hưởng thụ sự hiện đại này.
Có khi nào chúng ta thấy nhục nhã, chẳng cần gì cao siêu, mà chỉ bởi vì chúng ta vừa quăng một cục rác xuống đường. Ai đó nhắc nhở, và chúng ta phản bác: TRƯỚC SAU CŨNG CÓ NGƯỜI QUÉT THÔI. Liệu có bao giờ chúng ta thấy nhục mặt vì cái độ lười nó ghê tởm đến nỗi những con chó thông minh, biết đi ị đúng chỗ cũng phải khinh thường?
Những thế hệ đi qua, và những bài học của các bậc mẹ cha ngày càng thực dụng. Bạn không thấy xã hội này quá co cụm từ khi bạn chuẩn bị cắp đồ lên thành phố học? 99,9% tôi đảm bảo sẽ được nhắc: Giữ tiền cẩn thận nha con, trộm cắp dữ lắm; Ở ký túc xá coi chừng nha con, trộm cắp phức tạp lắm; ở Sài Gòn cẩn thận nha con, dân tứ xứ chẳng biết ai là ai đâu…
Bạn đã từng nghe, chắc chắn như vậy, và hãy thừa nhận là lũ người xung quanh bạn thật gớm ghiếc. Và bạn, tôi chỉ đích danh bạn đó, cũng chưa chắc là một trường hợp đặc biệt gì ngoài lũ gớm ghiếc đó đâu. Một lũ tệ hại, cười với nhau những nụ cười giả tạo, đôi tay vịn chắc túi tiền và trôi vào dòng cuộc sống.
Ai đó quăng rác bừa bãi, chúng ta quăng rác một cách tinh vi. Ai đó lừa đảo ta, ta học cách đó để lừa đảo lại người khác. Và chúng ta có một xã hội như ngày hôm nay. Chẳng ra một cái gì cả.
Đề phòng nhau đến những chuyện nhỏ nhặt đến như vậy thì làm sao còn đầu óc để đầu tư vào những thứ tiến bộ khác hơn? Một xã hội co cụm, những ánh mắt đầy hoài nghi, ghê tởm thay cho chúng ta!
Chúng ta lười mọi thứ. Chúng ta lười vận động, rồi thì sức khỏe chúng ta kém, sức chịu đựng không có nên chúng ta nhác học, lười làm, buồn ngủ khi phải nghĩ và chán ngán khi phải chịu đựng. Tất cả những gì chúng ta có là đối phó, từ trong ra ngoài. Không đối phó bằng cách hối lộ tiền, thì đối phó bằng cách mua bằng cấp giả, nếu không được thì học đại cho xong, và trong lúc học cũng đối phó với thầy cô. Vâng, chúng ta đối phó n+1 các loại. Nhưng điều làm tôi ghê tởm hơn cả tật đối phó, chính là không thèm đối phó nữa mà sẵn sàng thải rác ra đường như không giữa ban ngày ban mặt, buông lời tục tĩu, dâm dục giữa thiên hạ. Số đó không hề ít, xin chớ coi thường.
Chịu đựng! Những người đi ra từ chiến tranh với sức chịu đựng ghê gớm. Họ đã cố xây dựng lại mọi thứ từ đống tro tàn. Nhưng còn chúng ta thì sao? Được nuông chiều từ nhỏ tới lớn, chẳng phải chịu đựng bất cứ cái gì, và giờ thì sẵn sàng ngồi quán cafe chém gió suốt ngày.
Bạn biết bọn nhậu nhẹt và ngồi quán cafe chém gió thường nói gì khi gặp nhau? Tao mới xin làm chỗ kia, lương 4 triệu mà toàn ngồi chơi. Liền lập tức, thằng đối diện sẽ bảo: NGON VẬY!
Cái tư duy ở xứ này là: Ngồi chơi và “khỏe”! Nhưng yên tâm đi, vũ trụ rất công bằng. Cái chỏm nhỏ ở chỗ này trước sau gì cũng bị trừng phạt nếu tiếp tục tồn tại theo kiểu đó.
Nếu bạn muốn thay đổi đất nước, nếu bạn đã 18 hay 20 tuổi hoặc hơn, hẳn là bạn cũng sẽ sớm trở thành những ông bố, bà mẹ. Thế nên, hãy chuẩn bị cho thay đổi, không cần biết trước đây bạn được giáo dục như thế nào, hãy chắc rằng, bạn sẽ trở thành hình mẫu mà bạn muốn con cái mình trở thành trong tương lai.
Đừng để thế hệ nối tiếp sống cuộc sống như thế này. Và xin cũng đừng, đừng xấu xa cho đã để rồi sau này bắt con mình trở thành một người tốt. Con nít học qua hình ảnh, nó bắt chước tất cả những gì nó thấy. Đừng bao giờ cho phép bản thân tệ hại, và ngụy biện rằng bạn dù có xấu xa thế nào cũng là hy sinh cho tương lai của nó. Bởi vì, cách đó nhàm quá rồi, một lời biện hộ không có nghĩa gì hết.
Tôi biết là Việt Nam vẫn chưa có một cuộc cách mạng cải tổ lại tư duy người Việt. Nhưng từ giờ cho tới lúc đó, hy vọng tôi có thể giúp ai đó hiểu rằng, hãy luyện tập, hãy chịu đựng để bước đi những ngày tháng trưởng thành. Bạn không thể lớn thêm nếu không chịu đựng. Nếu bạn muốn đi lên, bạn phải chịu đựng, dù xung quanh không có ai hỗ trợ bạn, dù xung quanh mọi người đang say ngủ…
NẾU BẠN MUỐN TRƯỞNG THÀNH, HÃY CHỊU ĐỰNG
Trong nghĩa của từ chịu đựng, không có lười biếng. Trong nghĩa của từ chịu đựng là sức mạnh. Mỗi một cá nhân có sức mạnh, khỏi cần phải bàn tới chuyện đất nước có đi lên hay không, vì đôi tay của bạn thậm chí có thể nhấc bổng cả bầu trời…

Tóm lại là, người viết thì cứ viết, người chơi thì cứ chơi nhỉ!!!

THẨM MỸ - HỌC SÁNG TẠO THEO TINH THẦN GIÁO DỤC TÍCH CỰC


Triết lý v mt nn giáo dc tích cc
Từ nửa sau thế kỉ 20, thế giới chuyển mình bằng những cuộc cách mạng giáo dục. Các nhà giáo dục cấp tiến chủ trương chuyển giáo dục truyền thụ tri thức sang phát triển năng lực. Nhiều quốc gia Âu – Mỹ đã thực hiện thành công bằng những thực nghiệm và áp dụng đại trà ở tất cả các cấp học. Bắt đầu từ mầm non. Ngay từ khi bước chân vào trường học, trẻ em đã được tiếp xúc với học sáng tạo để hình thành và duy trì thói quen sáng tạo.
Xây dựng một nền giáo dục tích cực là trách nhiệm của mọi thành viên tham gia hoạt động giáo dục. Anne Bamford, triết gia giáo dục Anh, chủ trương giáo dục không có nghĩa là bắt người học phải làm theo những gì đã có trong quá khứ mà hướng dẫn họ làm được những gì cho tương lai. “Trong tương lai, tất cả trẻ em, sinh viên, công dân phải là những người xây dựng kỹ năng của thế kỷ 21, có khả năng tự phát triển kỹ năng của họ. Họ cũng học cách chủ động, đôi khi có thể dám liều, kết hợp các kỹ năng này để tạo ra những sự đổi mới cho xã hội. Giáo dục phải làm cho họ đủ tự tin trong sự sáng tạo của họ để nhìn thấy những thay đổi này là cơ hội có thể đạt được, chứ không phải là những mối đe dọa.”.
Sáng tạo, theo tiếng Latin là creatio, ban đầu gán cho những hành động của Chúa – Đấng toàn năng, và con người chỉ biết bắt chước, làm theo ý Chúa. Nhưng sau đó, ngay trong thời La Mã, và đặc biệt từ thời Phục Hưng đến Khai sáng, con người đã nhận ra khả năng của mình có thể làm ra một cái gì đó mới từ cái đã tồn tại, và cao hơn, con người có thể làm ra những gì chưa có. Khái niệm sáng tạo thay thế hẳn thuật ngữ bắt chước (mimesis) của tư duy Hy Lạp cổ để khẳng định vai trò làm chủ thế giới của con người.
Rousseau, triết gia giáo dục hàng đầu của thời Khai Sáng, đã từng đánh thức nhân loại bằng sự phản tỉnh đối với “nền giáo dục gia công”, “giáo dục nhồi sọ”Ông xem đó là nền giáo dục biến con người thành công cụ hơn là sáng tạo, “những ý tưởng đầu tiên của trẻ là những ý tưởng về quyền lực và sự khuất phục! Nó bị hạ lệnh trước khi biết nói, nó vâng theo trước khi có thể hành động; và đôi khi người ta trừng phạt nó trước khi nó có thể biết lỗi, hoặc nói đúng hơn là có thể phạm lỗi. Như vậy là người ta sớm rót vào trái tim non nớt của nó những đam mê mà sau đó người ta quy tội cho tự nhiên, và sau khi nhọc công làm nó thành tai ác, người ta lại phàn nàn vì thấy nó tai ác!”. Hậu quả tất yếu của phương thức giáo dục ấy là tạo ra một sản phẩm “vừa là nô lệ vừa là bạo chúa, đầy kiến thức và thiếu lương tri, bạc nhược về thể chất cũng như tâm hồn, và bị quăng vào xã hội”. [2, tr.47-48].
Sáng tạo trở thành nhu cầu bức thiết trong bức tranh toàn cầu hóa của thế giới đương đại. Lịch sử chỉ vận động và phát triển nhanh nhờ sáng tạo của mỗi cá nhân. A. Einstein nói: “Vấn đề của ngày hôm nay sẽ không giải quyết bằng những tư duy tương tự đã sản sinh ra các vấn đề từ thời điểm ban đầu”. Có nghĩa là, tri thức không bao giờ là cái hằng định, bất biến, mà nói theo các nhà giải cấu trúc: khác là lí do của tồn tại và phát triển.
Sáng tạo, creativity, trong nghĩa hiện đại nhất của từ, được định nghĩa như một sự làm khác (Making the other). Khác chống lại sự copy và đi theo khuôn mẫu. Khác tạo ra cái mới. Khác sinh ra sự đa dạng. Khác làm thay đổi thế giới và làm giàu cho đời sống tinh thần của nhân loại. Tư tưởng này hàm chứa đầy đủ tinh thần cách mạng của một nền giáo dục tích cực.
Cơ s tâm lý hc – Tri nghim và thc nghim sáng to
Tư tưởng giáo dục hiện đại Âu – Mỹ chủ yếu thừa hưởng từ Tâm Lý học của L.X. Vygotsky và J. Piaget. Vygotsky cũng như Piaget đều thừa nhận trẻ ngay từ đầu đã là con người hoàn chỉnh. Các giác quan và cấu trúc não bộ của trẻ không khác người trưởng thành, nếu không muốn nói, các giác quan và não bộ của chúng nhạy cảm hơn và năng động hơn trước khi bị lão hóa. Bằng chứng, trẻ cảm nhận được những màu sắc, âm thanh, hương vị, nồng độ rất tinh tế với những phát hiện bất ngờ. Trẻ em chỉ khác người trưởng thành ở sự trải nghiệm.
Trải nghiệm là phương thuốc ngăn chặn sự tự kỉ, bởi vì các trải nghiệm trong môi trường tự nhiên và xã hội sẽ giúp cho con người vượt qua nỗi sợ hãi để chiến thắng bản thân và đi đến hòa nhập. Dựa vào năng lực trải nghiệm, Vygotsky phân chia cấu trúc tâm lí trẻ em thành 3 vùng:
1.    Điều tôi có thể làm được ;
2.    Điều tôi có thể làm được với sự giúp đỡ;
3.    Điều tôi chưa thể làm được.

Vùng thuộc điều tôi có thể làm được với sự giúp đỡ gọi là Vùng phát triển gần (Zone of Proximal Development)

Giáo dục hiện đại quan tâm đến việc tác động vào vùng phát triển gần. Nhà giáo dục không can thiệp vào toàn bộ quá trình phát triển nhân cách của trẻ mà chỉ giúp đỡ những điều trẻ đang cần sự giúp đỡ. Phát triển năng lực là kích thích vào sáng tạo, bởi trẻ em không phải là công cụ của văn hóa mà sẽ là chủ thể của văn hóa. Trẻ em tham gia vào tiến trình văn hóa và góp phần tạo ra văn hóa.


Piaget khi đưa ra mô hình 4 giai đoạn phát triển của trẻ, đã cực đoan hơn khi chủ trương, tốt nhất “Hãy để cho trẻ em tự phát triển”, “Đừng động vào chúng!” (Don’t touch them!). Không phải Piaget không có lý khi các kết quả thực nghiệm của ông cho thấy năng lực sáng tạo của trẻ em tồn tại ngay trong bản năng tự nhiên của chúng (giai đoạn 2, representational, phát triển kỹ năng sáng tạo biểu tượng để thay thế cái thực) chứ không phải do giáo dục. Giáo dục chỉ nên tạo môi trường và điều kiện cho trẻ tự phát triển.
Trên cơ sở những lý luận về trực giác của H. Bergson, về tâm thần học của C. Jung, Piaget chứng minh những thứ gọi là “phép mầu” hay “tưởng tượng” trong niềm tin của trẻ thơ là sự thật – sự thật của những phát hiện và sáng tạo bất ngờ. Piaget xác định, có những điều người lớn bị mù lòa thì trẻ nhìn thấy một cách sáng rõ. Trẻ có thể nhìn thấy nhiều màu sắc trong quang phổ của ánh sáng, những thay đổi, biến dạng tinh tế của sự vật, hiện tượng trong trạng thái vận động, kể cả cảm nhận không – thời gian mà người lớn không thể thấy được. Thực nghiệm này ghi nhận những phát hiện bất ngờ ở đứa trẻ, giống như ghi nhận “tưởng tượng” kì diệu của cậu bé Einstein về việc cỡi lên chùm ánh sáng, cảm nhận tốc độ của ánh sáng và sự uốn cong của không – thời gian. [3, tr.170].
Các nhà tâm lí – giáo dục học hiện đại chia ra làm hai loại tư duy
  • Tư duy phân kì (Divergent): Loại tư duy chuyên biệt vào một loại đối tượng. Loại này chính là cha đẻ của siêu hình học, tách các đối tượng ra khỏi các mối quan hệ để nhận thức.
  • Tư duy hội tụ (Convergent): Loại tư duy tổng hợp, xóa bỏ ranh giới giữa các đối tượng, tạo ra các mối quan hệ biện chứng giữa các đối tượng khác loại.

Một cách gọi khác là Tư duy chiều dọc (Vertical) và Tư duy chiều ngang (Horizontal). Tư duy chiều dọc chuyên sâu vào các đối tượng chuyên biệt, đặt chủ thể nhận thức vào khuôn thước của logic và không có giá trị sáng tạo vì nó chỉ phát hiện cái đã có. Tư duy chiều ngang phá vỡ mọi khuôn thước, kết nối các đối tượng khác loại vào trong một mối quan hệ đặc biệt, từ đó khai phóng sáng tạo; những liên tưởng, tưởng tượng bất ngờ, ngẫu nhiên sẽ tạo ra cái mới, cái chưa hề có.


Một ví dụ sơ giản của Bennyé D. Austring & Merete Sørensen. Tư duy chiều dọc không giúp cho nhà sản xuất bia hay nhà thiết kế xây dựng làm ra cái mới ngoài những khuôn mẫu đã có. Tư duy chiều ngang có thể giúp cho một kiến trúc sư nối kết hai cái khác biệt ấy để kiến tạo nên một khách sạn hình lon bia. Kiến trúc này thu hút du khách bởi ấn tượng được tắm mình trong không khí lễ hội, về sự tươi mát và vui vẻ, sự phấn chấn và cuồng nhiệt.


Tương tự: người + cá = người cá, người + sư tử = nhân sư, người + ngựa – nhân mã, người + chim = nhân điểu… là những sáng tạo của tư duy hội tụ hay chiều ngang mà ta thường gọi là tư duy huyền thoại. Hơn cả chục ngàn năm trước, khi con người còn là trẻ thơ đã có những sáng tạo bất hủ như thế!
Tư duy hội tụ hay chiều ngang, trên bề mặt có thể là sự chắp vá ngẫu nhiên, nhưng ở chiều sâu của nó, là sự nối kết sự vận động để tạo ra các ký hiệu, biểu trưng có tính văn hóa. Chuyện về nguồn gốc Tiên – Rồng của người Việt là một sự hợp thành Đất – Nước (Đất là nơi chim về/ Nước là nơi Rồng ở – Nguyễn Khoa Điềm) là những kiểu tư duy độc đáo trong kiến tạo lịch sử của nhân loại trước khi có những kiến giải theo trình tự logic của khoa học.
Sáng tạo văn hóa như là sáng tạo các kí hiệu, biểu trưng
Lịch sử văn hóa là lịch sử của những kiến tạo từ những cá nhân và sự thừa nhận của cộng đồng. Con người đã sáng tạo ra cuộc sống cho chính mình và cộng đồng của mình. Mỗi cá nhân tham dự vào tiến trình văn hóa với tư cách là sản phẩm văn hóa đồng thời lại là chủ thể văn hóa trong sự duy trì và phát triển văn hóa của cộng đồng và nhân loại.
Văn hóa, vì thế, không là cái bất biến, nó ổn định nhưng khả biến bởi quy luật tương tác giữa mới và cũ, giữa cá nhân và cộng đồng. Trong đó, nghệ thuật là trung tâm của các hoạt động thẩm mỹ và văn hóa.
Khoảng 16.000 năm trước đã từng xuất hiện những hình ảnh này tại hang động Lascaux ở Pháp, rất sơ giản nhưng không khác một bức tranh nghệ thuật Ấn tượng.

 Khoảng 9000 năm trước, tại Trung Đông đã có những chiếc mặt nạ bằng đá, công phu đến mức khó tưởng tượng người ta đã mất bao nhiêu thời gian để làm ra những sản phẩm kì công đó. 

Vì sao con người đã làm ra những hình ảnh này? Có nhiều cách trả lời. Đơn giản đó là cách thức duy trì sự tồn tại, bằng cách tái hiện để lưu lại cái đã được tri giác, tưởng tượng, những ấn tượng xúc cảm nào đó, cũng có thể là kiến tạo thế giới của những trải nghiệm, của tín ngưỡng hoặc vui chơi giải trí…
Các hình ảnh này được sinh ra như một sự thay thế. Con người đã làm ra cái ảo để thay thế cho cái thực, làm ra cái có thể hình dung để thay thế cho những thứ khó có thể hình dung. Thế giới ấy gọi là ký hiệu, biểu trưng.
Sự thay thế ấy dễ đưa nhận thức con người rơi vào cái bẫy của sự nhầm lẫn, rằng mọi hình ảnh đều phản ánh một hiện thực nào đó. Rene Magritte, một nghệ sĩ theo chủ nghĩa siêu thực, đã vẽ bức tranh rất giống với sự thực được tri giác. Một cái tẩu thuốc, nhưng ông lại ghi dưới bức tranh rằng, đây không phải là cái tẩu thuốc để giễu cợt những đầu óc đơn giản.
Thông điệp mà Magritte muốn gửi đến cho người xem là gì? Khi ghi chú: đây không phải là cái tẩu thuốc, ông muốn chống lại thói quen của nhận thức, rằng mọi hình ảnh đều quy chiếu giản đơn về một hiện thực được tri giác nào đó. Không có lý do gì con người chỉ biết tạo ra các bản sao từ hiện thực để nhận thức hiện thực. Cho nên, phải nói chính xác rằng, đó chỉ là một bức tranh hay hình ảnh về cái tẩu thuốc. Hình ảnh, tiếng Anh là Image, cũng mang nghĩa là tưởng tượng. Nó chỉ là cái ảo, cái biểu đạt cho một cái được biểu đạt, theo cách nói của F.Saussure, và như vậy nó trở thành cái siêu thực tại và chỉ tồn tại như một ký hiệu, biểu trưng.
Với tư cách là ký hiệu, biểu trưng, chúng ta tiếp nhận thế giới được thay thế ấy bằng tất cả tinh thần của chúng ta chứ không phải cái vật chất ngoài chúng ta. Hình ảnh cái tẩu trên kia chỉ để chiêm ngưỡng, suy ngẫm và khoái cảm về nó chứ không phải để sử dụng như một công cụ của nhu cầu thực dụng. Cũng như thế, người ta có đầy đủ khoái cảm về một tách cà phê buổi sáng qua chiêm ngưỡng bức tranh siêu thực này chứ không còn quy chiếu về một cái tách cà phê có thực

Sáng tạo là hoạt động đặc quyền của con người. Thượng Đế không sáng tạo ra con người mà chính con người đã sáng tạo ra Thượng Đế. Thượng Đế, xét đến cùng cũng chỉ là ký hiệu, biểu trưng. Khi Thượng đế đã là một ký hiệu, biểu trưng, thì mọi sáng tạo của con người không còn đơn thuần là sự mô phỏng thực tại nữa. Nó chống lại thực tại đã và đang có để làm ra một thực tại chưa có như một cách thể hiện quyền lực của chính con người đối với thế giới.
Các hình ảnh quảng cáo, logo, cho đến con số, công thức, ngôn ngữ đều là những ký hiệu, biểu trưng trong quá trình kiến tạo văn hóa của nhân loại. Từ thời cổ đại, các hình ảnh này đã là những ký hiệu, biểu trưng.
Ngay cả cái giống thật nhất (theo chủ nghĩa tả thực) đã luôn là cái không thật. Chúa tạo ra loài người chỉ là một biểu trưng, tức con người đã sáng tạo ra Chúa.


Đến nghệ thuật hiện đại và hậu hiện đại, ảo giác đã phá vỡ toàn bộ thực tại của tri giác

 Theo J. Lacan, bao viền xung quanh đời sống của chúng ta là thế giới của những ký hiệu, biểu trưng mà ta gọi là văn hóa. Thế giới ấy hiện hữu như một sự đại diện, thay thế cho cái vắng mặt là quyền lực và dục vọng: Con người muốn thống trị và kiến tạo lại thế giới như nó muốn. Các ký hiệu, biểu trưng điều hành cuộc sống của chúng ta. Chúng ta sống, hành động và suy nghĩ theo những trật tự đã được sắp đặt từ trước thông qua ký hiệu, biểu trưng. [1, tr.31-40]
Nghịch lí của văn hóa là tạo ra các Cấm kị (Taboo). Văn hóa xuất phát từ sự thật nhưng lại che lấp sự thật bằng những cấm kỵ. Trong điều kiện những cấm kỵ hình thành như một thứ hàng rào dày đặc, con người bị cầm tù và bị sai khiến bởi cái siêu thực tại mà ta gọi là văn hóa kia. Giải cấu trúc chủ trương khai phóng con người bằng trò chơi hủy – tạo liên tục để hướng đến một nền văn hóa đa dạng, tôn trọng những khác biệt.
Thực tại tri giác là cái hữu hạn nhưng sáng tạo của con người là vô hạn. Văn hóa phải nằm trong quy luật hủy – tạo liên tục như một động lực của phát triển. Cái cũ, lỗi thời phải bị phá hủy để kiến tạo nên cái mới, tiến bộ. Sự kiến tạo thường xuất hiện như một đột biến, từ những sáng tạo của cá nhân. Tự do là điều kiện tất yếu của sáng tạo, là nhu cầu bức thiết của thời đại hậu công nghiệp – thời đại kinh tế tri thức.
Giáo dục tích cực
Một nền giáo dục nhồi sọ, gồm quá nhiều những cấm kỵ, chỉ có thể tạo ra lối mòn hoặc làm tê liệt sáng tạo. Triết gia M. Foucault khẳng định, tri thức thường là sản phẩm được hợp thức hóa bởi quyền lực và khi được hợp thức hóa bởi quyền lực, tri thức cầm tù con người và biến con người thành công cụ của nó. [6, tr.208].
Giáo dục tích cực chủ trương chuyển truyền thụ tri thức thành phát triển năng lực bằng cách tạo điều kiện cho người học tham gia trải nghiệm thực tiễn. Thực tiễn mới là tri thức đích thực khai phóng mọi năng lực sáng tạo.
Trẻ em cần phát triển năng lực chứ không phải cần sự hoàn thiện, bởi bản thân một đứa trẻ đã là con người hoàn thiện. Có nghĩa là, giáo dục không mang nghĩa uốn nắn trẻ em theo khuôn mẫu có sẵn mà kích thích sự phát triển theo nhiều hướng khác nhau. Điều giáo dục cần quan tâm là
1.    Trẻ em làm được điều gì?
2.    Điều gì trẻ em cần sự giúp đỡ của người lớn?
3.    Điều gì trẻ em cần làm một mình?
Quan sát hoạt động trẻ em, dễ thấy, ngay từ khi bước ra cuộc đời, mọi hoạt động của trẻ đã là hoạt động trải nghiệm. Quan sát này có thể gợi ý cho giáo dục một quy trình cơ bản trong việc phát huy năng lực sáng tạo:
1) Trải nghiệm cơ bản: trải nghiệm này thuộc bản năng sinh tồn. Trước một thử thách đơn giản, trẻ có thể tự điều chỉnh hành vi phù hợp không chỉ với môi trường tự nhiên mà còn với hoàn cảnh xã hội để tồn tại.
2) Trải nghiệm sáng tạo: trải nghiệm này thuộc tư duy. Trẻ biết suy nghĩ làm ra một cái gì đó khác đối với nó bằng tất cả sự hứng thú và say mê. Biểu hiện rõ nhất là từ trò chơi giả bộ hay đóng vai, đến sáng tạo thực sự, tức tạo ra cái mới, cái độc đáo.
3) Trải nghiệm khám phá: là một hướng khác của tư duy. Trẻ tham gia khám khá thế giới bằng quan sát, thí nghiệm và khái quát. Trải nghiệm này có tính chất chuyên biệt theo con đường của khoa học. Tất nhiên khoa học cũng rất cần sáng tạo. Những trực giác, tưởng tượng tuổi thơ với những phát hiện bất ngờ, như trường hợp A. Popov, T. Edison, A.Einstein, đã mở ra những phát minh khoa học vĩ đại.
Quy trình sáng tạo được biểu thị như một biện chứng giữa rung động, hứng thú – tưởng tượng đến sản xuất cái mới.

 Trò chơi giả bộ được xem như một sự tham dự vào tiến trình của đời sống và văn hóa. Trẻ thường đóng vai con vật, loài vật như một trải nghiệm với môi trường tự nhiên để hòa nhập vào tự nhiên. Chúng cũng hay đóng vai người lớn như một trải nghiệm đời sống xã hội để hòa nhập vào môi trường xã hội.
Trò chơi nói chung, đặc biệt là trò chơi giả bộ, theo Vygotsky, đối với trẻ như là một nguồn mạch của hoạt động sáng tạo căn bản. Bởi vì, đóng vai là sự hóa thân vào cái khác để làm ra cái khác, như hóa thân vào con vật, loài vật, hoặc hóa thân vào người lớn như một sự trải nghiệm để làm ra cái khác mình. Từ đó, trẻ phát triển sang hoạt động sáng tạo cao hơn: sáng tạo văn hóa, đóng góp vào sự phát triển văn hóa chung. Các hoạt động vẽ tranh, chơi nhạc, kịch nghệ… phát triển từ trò chơi giả bộ.
Trò chơi giả bộ ở trẻ em như là sự trải nghiệm để phát triển kinh nghiệm đời sống tự nhiên và xã hội, hiểu biết thế giới bên ngoài và đánh thức tiềm năng bên trong não bộ.
Trò chơi như là phương tiện trị liệu tâm lí giúp trẻ tự tin và dễ dàng hòa nhập.
Quan điểm của Vygotsky: Cái trẻ con cần người lớn giúp đỡ hôm nay sẽ là hoạt động của nó trong ngày mai. Giáo dục kích thích từ vùng phát triển gần đến vùng phát triển xa.
Điều kiện để trẻ có được sáng tạo là sự tự do. Hãy tạo ra những khoảng trống cho trẻ phát huy sáng tạo. Mọi sắp đặt hay ràng buộc đều không kích thích sáng tạo mà chỉ gây ức chế, trói buộc trẻ em vào lối mòn. Một sáng tạo có thể là một sự ngẫu nhiên, một hứng thú tình cờ bởi sự tự do của nó.
Trừ sáng tạo ngẫu nhiên – ngẫu hứng không cần học tập, có thể tổng hợp thành 3 phương pháp kích thích sáng tạo được đề xuất từ những nhà giáo dục cấp tiến:
1) Brain Storming: Thuật ngữ này do Alex Osborn đề xuất và sử dụng trong cuốn sách Sự tưởng tượng được áp dụng (Applied Imagination) và Năng lực sáng tạo của bạn (Your Creative Mind). Phương pháp này áp dụng cho từng nhóm nhỏ hoặc cá nhân. Nghĩa đen là “đột kích vào não bộ” bằng chính những cái đã có, nhưng những cái ấy hoàn toàn khác lạ đến từ những nơi khác nhau, mang bản sắc khác nhau và đều được thừa nhận bình đẳng. Tôn trọng những khác biệt và tương tác của những khác biệt sẽ tạo ra cái mới. Trường hợp Jean-Michel Basquiat, nghệ sĩ da đen người Mỹ, đã trở thành một ngôi sao nghệ thuật quốc tế khi biết cách sử dụng các ký hiệu, biểu tượng khác nhau đến từ Haitian, Puerto Rican và những nền văn hóa khác nhau của người Mỹ gốc Phi theo cách brain storming. Các yếu tố đường nét, màu sắc, hình dạng mang bản sắc thổ dân được phát triển thành các ký hiệu, biểu tượng mang tầm quốc tế.
Cũng có thể phát triển ý tưởng của nhiều người trong một nhóm để tạo ra ý tưởng mới. Chẳng hạn, một nhóm những người mang ý tưởng khác nhau có thể góp phần tạo ra một bức tranh hay một câu chuyện một cách ngẫu hứng, người này kế thừa phát triển ý của người kia, từ đó tạo ra một bức tranh hay câu chuyện bất ngờ ngoài dự định và ngoài khuôn khổ.
2) Lateral Thinking: Thuật ngữ này do Edward de Bono đề xuất trong quyển Lateral Thinking. Nghĩa đen là suy nghĩ một chiều, một phía. Đúng nghĩa phải là suy nghĩ bên lề, suy nghĩ nằm ngoài thói quen truyền thống, hoặc vượt ra khỏi sự chi phối bởi cái trung tâm – chính thống. De Bono định nghĩa: “Lateral Thinking được sử dụng để thay đổi các quan niệm và nhận thức thay vì cố gắng một cách cứng nhắc với các khái niệm và nhận thức tương tự”. Vấn đề đơn giản như mở một cánh cửa, hãy thử đưa ra một số giải pháp mới, ngoại trừ vặn núm cửa. Khi xóa bỏ thói quen thông thường, tự nó tạo ra một cách tiếp cận mới và sinh ra kết quả mới. Giống như Einstein loại trừ các định luật của Newton đang thống trị vật lí học cổ điển để tìm ra công thức khác khi giải thích vũ trụ vật lý của chúng ta. Cái bên lề thường là cái năng động hơn cái trung tâm, nó xóa bỏ những định kiến đã có để làm ra cái chưa có, kết quả bất ngờ chưa ai nghĩ tới. Các thiên tài sáng tạo, trong nghệ thuật cũng như trong khoa học, thường chọn vị thế bên lề, phi chính thống để làm nên những cuộc cách mạng vĩ đại trong nhận thức và trong sáng tạo. Các bức tranh của V. Van Gogh hay P. Picasso, đặc biệt, như trường hợp M. Duchamp, những bức tranh làm từ rác sau đó, là những cách nhìn bên lề dọn đường cho nghệ thuật hiện đại và hậu hiện đại đi vào cuộc sống.
Cái gì khi hết giá trị thực dụng tự nó có thể phục sinh giá trị thẩm mỹ, bởi con người khi làm ra mọi thứ đều nhào nặn từ ý thức thẩm mĩ.
3) Problem Reversal: Charles Thompson đề xuất thành phương pháp trong quyển sách Thật là một ý tưởng tuyệt vời (What a Great Idea). Phương pháp này còn gọi là đảo ngược hay phản biện vấn đề. Bất cứ vấn đề nào, dù có sự đồng thuận tuyệt đối, cũng đều có thể lật ngược để phát hiện ra cái mới như một nhu cầu hủy – tạo trong trò chơi sáng tạo. Bức tranh Đây không phải là cái tẩu thuốc của Rene Magritte là một cách lật ngược vấn đề, phá hủy thói quen nhận thức nghệ thuật như một sự phản ánh hiện thực.
Ngay trong lĩnh vực khoa học, tưởng tri thức chỉ có chân lý tuyệt đối, trong khi nó vẫn luôn bị phản biện và đảo lộn. Từ tiên đề Euclid đến phi Euclid, từ thuyết Địa tâm truyền thống đến Nhật tâm của Copernicus, từ Vũ trụ tuyệt đối của Newton đến Tương đối luận của Einstein… là những minh chứng cho sự thay đổi tri thức trong quá trình sáng tạo liên tục của nhân loại. Phản biện là nhu cầu đồng thời là sự sống còn của thế giới đương đại.
Ken Robinson, nhà tư tưởng về sự đổi mới và phát triển nguồn nhân lực của thế kỉ XX, tuyên bố: “theo thời gian những đứa trẻ trở thành người lớn, hầu hết trong số đó đã đánh mất năng lực sáng tạo của chúng; chúng trở nên lo sợ rằng chúng đã sai – chúng đã không được giáo dục về sự sáng tạo.”
“Tại sao điều này lại xảy ra? Việc khuyến khích khả năng sáng tạo có nghĩa là khuyến khích vượt ra khỏi những quy tắc và các giá trị thông thường đang tồn tại của xã hội. Mục đích chủ yếu của khả năng sáng tạo là đặt ra những chất vấn về các phương pháp cũ và tìm kiếm những phương pháp mới và tốt hơn, và chắc chắn những phương pháp không phải lúc nào cũng phù hợp với thế giới mà chúng ta đang sống. Sự tương quan và khả năng sáng tạo luôn đi theo những hướng riêng biệt”.
Rõ rằng, sáng tạo không có chuyện đúng hoặc sai mà chỉ có hứng thú hoặc nhàm chán. Một nền giáo dục chỉ biết phán xét đúng/ sai chỉ có thể gia tăng nguy cơ tự kỷ – người ta không đủ tự tin để nghĩ và làm ra cái mới. Mối đe dọa lớn nhất mà con người hiện đại đang đối mặt không phải là cái sai mà là chính mình, khi những khuôn thước đã nhồi vào trong não bộ bắt mình làm nô lệ mà mình không biết. Để vượt qua điều đáng sợ ấy, con người cần tự do trong suy nghĩ, tức nó đang rất cần một nền giáo dục tích cực, khai phóng.
Chúng ta thấy quan điểm của John Dewey từ thế kỷ trước được UNESCO phát triển thành vấn đề toàn cầu hiện nay, rằng giáo dục phải rèn luyện tính tự do, tự chủ của mỗi cá nhân và kỹ năng tương tác với xã hội; tính tự do, tự chủ và kỹ năng tương tác ấy là điều kiện thiết yếu của sáng tạo./.
Chu Mộng Long
 
Copyright © 2016 Braintrust Sức mạnh cộng đồng