Triết lý về một nền giáo dục tích cực
Từ nửa sau thế kỉ 20,
thế giới chuyển mình bằng những cuộc cách mạng giáo dục. Các nhà giáo dục cấp
tiến chủ trương chuyển giáo dục truyền thụ tri thức sang phát
triển năng lực. Nhiều quốc gia Âu – Mỹ đã thực hiện thành công bằng
những thực nghiệm và áp dụng đại trà ở tất cả các cấp học. Bắt đầu từ mầm non.
Ngay từ khi bước chân vào trường học, trẻ em đã được tiếp xúc với học sáng tạo
để hình thành và duy trì thói quen sáng tạo.
Xây dựng một nền giáo
dục tích cực là trách nhiệm của mọi thành viên tham gia hoạt động giáo dục.
Anne Bamford, triết gia giáo dục Anh, chủ trương giáo dục không có nghĩa là bắt
người học phải làm theo những gì đã có trong quá khứ mà hướng dẫn họ làm được
những gì cho tương lai. “Trong tương lai, tất cả trẻ em, sinh viên, công dân
phải là những người xây dựng kỹ năng của thế kỷ 21, có khả năng tự phát triển
kỹ năng của họ. Họ cũng học cách chủ động, đôi khi có thể dám liều, kết hợp các
kỹ năng này để tạo ra những sự đổi mới cho xã hội. Giáo dục phải làm cho họ đủ
tự tin trong sự sáng tạo của họ để nhìn thấy những thay đổi này là cơ hội có
thể đạt được, chứ không phải là những mối đe dọa.”.
Sáng tạo, theo tiếng Latin là creatio, ban đầu gán cho những hành động của Chúa
– Đấng toàn năng, và con người chỉ biết bắt chước, làm theo ý Chúa. Nhưng sau
đó, ngay trong thời La Mã, và đặc biệt từ thời Phục Hưng đến Khai sáng, con
người đã nhận ra khả năng của mình có thể làm ra một cái gì đó mới từ cái đã
tồn tại, và cao hơn, con người có thể làm ra những gì chưa có. Khái niệm sáng
tạo thay thế hẳn thuật ngữ bắt chước (mimesis) của tư duy Hy
Lạp cổ để khẳng định vai trò làm chủ thế giới của con người.
Rousseau, triết gia
giáo dục hàng đầu của thời Khai Sáng, đã từng đánh thức nhân loại bằng sự phản
tỉnh đối với “nền giáo dục gia công”, “giáo dục nhồi sọ”. Ông xem đó là nền giáo dục biến con
người thành công cụ hơn là sáng tạo, “những ý tưởng đầu tiên của trẻ là những ý
tưởng về quyền lực và sự khuất phục! Nó bị hạ lệnh trước khi biết nói, nó vâng
theo trước khi có thể hành động; và đôi khi người ta trừng phạt nó trước khi nó
có thể biết lỗi, hoặc nói đúng hơn là có thể phạm lỗi. Như vậy là người ta sớm
rót vào trái tim non nớt của nó những đam mê mà sau đó người ta quy tội cho tự
nhiên, và sau khi nhọc công làm nó thành tai ác, người ta lại phàn nàn vì thấy
nó tai ác!”. Hậu quả tất yếu của phương thức giáo dục ấy là tạo ra một sản phẩm
“vừa là nô lệ vừa là bạo chúa, đầy kiến thức và thiếu lương tri, bạc nhược về
thể chất cũng như tâm hồn, và bị quăng vào xã hội”. [2, tr.47-48].
Sáng tạo trở thành nhu
cầu bức thiết trong bức tranh toàn cầu hóa của thế giới đương đại. Lịch sử chỉ
vận động và phát triển nhanh nhờ sáng tạo của mỗi cá nhân. A. Einstein
nói: “Vấn đề của ngày hôm nay sẽ không giải quyết bằng những tư duy tương tự đã
sản sinh ra các vấn đề từ thời điểm ban đầu”. Có nghĩa là, tri thức không bao
giờ là cái hằng định, bất biến, mà nói theo các nhà giải cấu trúc: khác là lí
do của tồn tại và phát triển.
Sáng tạo, creativity, trong nghĩa hiện đại nhất của từ, được định
nghĩa như một sự làm khác (Making the other). Khác
chống lại sự copy và đi theo khuôn mẫu. Khác tạo ra cái mới. Khác sinh ra sự đa
dạng. Khác làm thay đổi thế giới và làm giàu cho đời sống tinh thần của nhân
loại. Tư tưởng này hàm chứa đầy đủ tinh thần cách mạng của một nền giáo dục
tích cực.
Cơ sở tâm lý học – Trải nghiệm và thực nghiệm sáng tạo
Tư tưởng giáo dục hiện
đại Âu – Mỹ chủ yếu thừa hưởng từ Tâm Lý học của L.X. Vygotsky và J. Piaget.
Vygotsky cũng như Piaget đều thừa nhận trẻ ngay từ đầu đã là con người hoàn
chỉnh. Các giác quan và cấu trúc não bộ của trẻ không khác người trưởng thành,
nếu không muốn nói, các giác quan và não bộ của chúng nhạy cảm hơn và năng động
hơn trước khi bị lão hóa. Bằng chứng, trẻ cảm nhận được những màu sắc, âm
thanh, hương vị, nồng độ rất tinh tế với những phát hiện bất ngờ. Trẻ em chỉ
khác người trưởng thành ở sự trải nghiệm.
Trải nghiệm là phương
thuốc ngăn chặn sự tự kỉ, bởi vì các trải nghiệm trong môi trường tự nhiên và
xã hội sẽ giúp cho con người vượt qua nỗi sợ hãi để chiến thắng bản thân và đi
đến hòa nhập. Dựa vào năng lực trải nghiệm, Vygotsky phân chia cấu trúc tâm lí
trẻ em thành 3 vùng:
1.
Điều
tôi có thể làm được ;
2.
Điều
tôi có thể làm được với sự giúp đỡ;
3.
Điều
tôi chưa thể làm được.
Vùng thuộc điều tôi có
thể làm được với sự giúp đỡ gọi là Vùng phát triển gần (Zone
of Proximal Development)
Giáo dục hiện đại quan tâm
đến việc tác động vào vùng phát triển gần. Nhà giáo dục không can thiệp vào
toàn bộ quá trình phát triển nhân cách của trẻ mà chỉ giúp đỡ những điều trẻ
đang cần sự giúp đỡ. Phát triển năng lực là kích thích vào sáng tạo, bởi trẻ em
không phải là công cụ của văn hóa mà sẽ là chủ thể của văn hóa. Trẻ
em tham gia vào tiến trình văn hóa và góp phần tạo ra văn hóa.
Piaget khi đưa ra mô
hình 4 giai đoạn phát triển của trẻ, đã cực đoan hơn khi chủ trương, tốt nhất
“Hãy để cho trẻ em tự phát triển”, “Đừng động vào chúng!” (Don’t touch them!).
Không phải Piaget không có lý khi các kết quả thực nghiệm của ông cho thấy năng
lực sáng tạo của trẻ em tồn tại ngay trong bản năng tự nhiên của chúng (giai
đoạn 2, representational, phát triển kỹ năng sáng tạo biểu tượng để thay thế
cái thực) chứ không phải do giáo dục. Giáo dục chỉ nên tạo môi trường và điều
kiện cho trẻ tự phát triển.
Trên cơ sở những lý
luận về trực giác của H. Bergson, về tâm thần học của C. Jung, Piaget chứng
minh những thứ gọi là “phép mầu” hay “tưởng tượng” trong niềm tin của trẻ thơ
là sự thật – sự thật của những phát hiện và sáng tạo bất ngờ. Piaget xác định,
có những điều người lớn bị mù lòa thì trẻ nhìn thấy một cách sáng rõ. Trẻ có
thể nhìn thấy nhiều màu sắc trong quang phổ của ánh sáng, những thay đổi, biến
dạng tinh tế của sự vật, hiện tượng trong trạng thái vận động, kể cả cảm nhận
không – thời gian mà người lớn không thể thấy được. Thực nghiệm này ghi nhận
những phát hiện bất ngờ ở đứa trẻ, giống như ghi nhận “tưởng tượng” kì diệu của
cậu bé Einstein về việc cỡi lên chùm ánh sáng, cảm nhận tốc độ của ánh sáng và
sự uốn cong của không – thời gian. [3, tr.170].
Các nhà tâm lí – giáo dục học hiện đại chia ra
làm hai loại tư duy
- Tư duy phân kì (Divergent): Loại
tư duy chuyên biệt vào một loại đối tượng. Loại này chính là cha đẻ của
siêu hình học, tách các đối tượng ra khỏi các mối quan hệ để nhận thức.
- Tư duy hội tụ (Convergent): Loại tư duy tổng hợp, xóa bỏ ranh giới giữa các đối
tượng, tạo ra các mối quan hệ biện chứng giữa các đối tượng khác loại.
Một cách gọi khác
là Tư duy chiều dọc (Vertical) và Tư duy chiều
ngang (Horizontal). Tư duy chiều dọc chuyên sâu vào các đối tượng chuyên
biệt, đặt chủ thể nhận thức vào khuôn thước của logic và không có giá trị sáng
tạo vì nó chỉ phát hiện cái đã có. Tư duy chiều ngang phá vỡ mọi khuôn thước, kết
nối các đối tượng khác loại vào trong một mối quan hệ đặc biệt, từ đó khai
phóng sáng tạo; những liên tưởng, tưởng tượng bất ngờ, ngẫu nhiên sẽ tạo ra cái
mới, cái chưa hề có.
Một ví dụ sơ giản của Bennyé
D. Austring & Merete Sørensen. Tư duy chiều dọc không giúp cho nhà sản xuất
bia hay nhà thiết kế xây dựng làm ra cái mới ngoài những khuôn mẫu đã có. Tư
duy chiều ngang có thể giúp cho một kiến trúc sư nối kết hai cái khác biệt ấy để
kiến tạo nên một khách sạn hình lon bia. Kiến trúc này thu hút du khách bởi
ấn tượng được tắm mình trong không khí lễ hội, về sự tươi mát và vui vẻ, sự phấn
chấn và cuồng nhiệt.
Tương tự: người + cá =
người cá, người + sư tử = nhân sư, người + ngựa – nhân mã, người + chim = nhân
điểu… là những sáng tạo của tư duy hội tụ hay chiều ngang mà ta thường gọi là
tư duy huyền thoại. Hơn cả chục ngàn năm trước, khi con người còn là trẻ thơ đã
có những sáng tạo bất hủ như thế!
Tư duy hội tụ hay
chiều ngang, trên bề mặt có thể là sự chắp vá ngẫu nhiên, nhưng ở chiều sâu của
nó, là sự nối kết sự vận động để tạo ra các ký hiệu, biểu trưng có tính văn
hóa. Chuyện về nguồn gốc Tiên – Rồng của người Việt là một sự hợp thành Đất –
Nước (Đất là nơi chim về/ Nước là nơi Rồng ở – Nguyễn Khoa Điềm) là
những kiểu tư duy độc đáo trong kiến tạo lịch sử của nhân loại trước khi có
những kiến giải theo trình tự logic của khoa học.
Sáng tạo văn hóa như là sáng tạo các kí hiệu,
biểu trưng
Lịch sử văn hóa là
lịch sử của những kiến tạo từ những cá nhân và sự thừa nhận của cộng đồng. Con
người đã sáng tạo ra cuộc sống cho chính mình và cộng đồng của mình. Mỗi cá
nhân tham dự vào tiến trình văn hóa với tư cách là sản phẩm văn hóa đồng thời
lại là chủ thể văn hóa trong sự duy trì và phát triển văn hóa của cộng đồng và
nhân loại.
Văn hóa, vì thế, không
là cái bất biến, nó ổn định nhưng khả biến bởi quy luật tương tác giữa mới và
cũ, giữa cá nhân và cộng đồng. Trong đó, nghệ thuật là trung tâm của các hoạt
động thẩm mỹ và văn hóa.
Khoảng 16.000 năm
trước đã từng xuất hiện những hình ảnh này tại hang động Lascaux ở Pháp, rất sơ
giản nhưng không khác một bức tranh nghệ thuật Ấn tượng.
Vì sao con người đã
làm ra những hình ảnh này? Có nhiều cách trả lời. Đơn giản đó là cách thức duy
trì sự tồn tại, bằng cách tái hiện để lưu lại cái đã được tri giác, tưởng
tượng, những ấn tượng xúc cảm nào đó, cũng có thể là kiến tạo thế giới của
những trải nghiệm, của tín ngưỡng hoặc vui chơi giải trí…
Các hình ảnh này được
sinh ra như một sự thay thế. Con người đã làm ra cái ảo để thay thế cho cái
thực, làm ra cái có thể hình dung để thay thế cho những thứ khó có thể hình
dung. Thế giới ấy gọi là ký hiệu, biểu trưng.
Sự thay thế ấy dễ đưa
nhận thức con người rơi vào cái bẫy của sự nhầm lẫn, rằng mọi hình ảnh đều phản
ánh một hiện thực nào đó. Rene Magritte, một nghệ sĩ theo chủ nghĩa siêu thực,
đã vẽ bức tranh rất giống với sự thực được tri giác. Một cái tẩu thuốc, nhưng
ông lại ghi dưới bức tranh rằng, đây không phải là cái tẩu thuốc để giễu cợt
những đầu óc đơn giản.
Thông điệp mà Magritte
muốn gửi đến cho người xem là gì? Khi ghi chú: đây không phải là cái tẩu thuốc,
ông muốn chống lại thói quen của nhận thức, rằng mọi hình ảnh đều quy chiếu
giản đơn về một hiện thực được tri giác nào đó. Không có lý do gì con người chỉ
biết tạo ra các bản sao từ hiện thực để nhận thức hiện thực. Cho nên, phải nói
chính xác rằng, đó chỉ là một bức tranh hay hình ảnh về cái tẩu thuốc. Hình
ảnh, tiếng Anh là Image, cũng mang nghĩa là tưởng tượng. Nó chỉ là cái ảo, cái
biểu đạt cho một cái được biểu đạt, theo cách nói của F.Saussure, và như vậy nó
trở thành cái siêu thực tại và chỉ tồn tại như một ký hiệu, biểu trưng.
Với tư cách là ký
hiệu, biểu trưng, chúng ta tiếp nhận thế giới được thay thế ấy bằng tất cả tinh
thần của chúng ta chứ không phải cái vật chất ngoài chúng ta. Hình ảnh cái tẩu
trên kia chỉ để chiêm ngưỡng, suy ngẫm và khoái cảm về nó chứ không phải để sử
dụng như một công cụ của nhu cầu thực dụng. Cũng như thế, người ta có đầy đủ
khoái cảm về một tách cà phê buổi sáng qua chiêm ngưỡng bức tranh siêu thực này
chứ không còn quy chiếu về một cái tách cà phê có thực
Sáng tạo là hoạt động
đặc quyền của con người. Thượng Đế không sáng tạo ra con người mà chính con
người đã sáng tạo ra Thượng Đế. Thượng Đế, xét đến cùng cũng chỉ là ký hiệu,
biểu trưng. Khi Thượng đế đã là một ký hiệu, biểu trưng, thì mọi sáng tạo của
con người không còn đơn thuần là sự mô phỏng thực tại nữa. Nó chống lại thực
tại đã và đang có để làm ra một thực tại chưa có như một cách thể hiện quyền
lực của chính con người đối với thế giới.
Các hình ảnh quảng
cáo, logo, cho đến con số, công thức, ngôn ngữ đều là những ký hiệu, biểu trưng
trong quá trình kiến tạo văn hóa của nhân loại. Từ thời cổ đại, các hình ảnh
này đã là những ký hiệu, biểu trưng.
Ngay cả cái giống thật nhất
(theo chủ nghĩa tả thực) đã luôn là cái không thật. Chúa tạo ra loài người chỉ
là một biểu trưng, tức con người đã sáng tạo ra Chúa.
Đến nghệ thuật hiện đại và
hậu hiện đại, ảo giác đã phá vỡ toàn bộ thực tại của tri giác
Nghịch lí của văn hóa
là tạo ra các Cấm kị (Taboo). Văn hóa xuất phát từ sự thật nhưng lại che lấp sự
thật bằng những cấm kỵ. Trong điều kiện những cấm kỵ hình thành như một thứ
hàng rào dày đặc, con người bị cầm tù và bị sai khiến bởi cái siêu thực tại mà
ta gọi là văn hóa kia. Giải cấu trúc chủ trương khai phóng con người bằng trò
chơi hủy – tạo liên tục để hướng đến một nền văn hóa đa dạng, tôn trọng những
khác biệt.
Thực tại tri giác là
cái hữu hạn nhưng sáng tạo của con người là vô hạn. Văn hóa phải nằm trong quy
luật hủy – tạo liên tục như một động lực của phát triển. Cái cũ, lỗi thời phải
bị phá hủy để kiến tạo nên cái mới, tiến bộ. Sự kiến tạo thường xuất hiện như
một đột biến, từ những sáng tạo của cá nhân. Tự do là điều kiện tất yếu của
sáng tạo, là nhu cầu bức thiết của thời đại hậu công nghiệp – thời đại kinh tế
tri thức.
Giáo dục tích cực
Một nền giáo dục nhồi
sọ, gồm quá nhiều những cấm kỵ, chỉ có thể tạo ra lối mòn hoặc làm tê liệt sáng
tạo. Triết gia M. Foucault khẳng định, tri thức thường là sản phẩm được hợp
thức hóa bởi quyền lực và khi được hợp thức hóa bởi quyền lực, tri thức cầm tù
con người và biến con người thành công cụ của nó. [6, tr.208].
Giáo dục tích cực chủ
trương chuyển truyền thụ tri thức thành phát triển năng lực bằng cách tạo điều
kiện cho người học tham gia trải nghiệm thực tiễn. Thực tiễn mới là tri thức
đích thực khai phóng mọi năng lực sáng tạo.
Trẻ em cần phát triển năng
lực chứ không phải cần sự hoàn thiện, bởi bản thân một đứa trẻ đã là con người
hoàn thiện. Có nghĩa là, giáo dục không mang nghĩa uốn nắn trẻ em theo khuôn
mẫu có sẵn mà kích thích sự phát triển theo nhiều hướng khác nhau. Điều giáo
dục cần quan tâm là
1.
Trẻ
em làm được điều gì?
2.
Điều
gì trẻ em cần sự giúp đỡ của người lớn?
3.
Điều
gì trẻ em cần làm một mình?
Quan sát hoạt động trẻ
em, dễ thấy, ngay từ khi bước ra cuộc đời, mọi hoạt động của trẻ đã là hoạt
động trải nghiệm. Quan sát này có thể gợi ý cho giáo dục một quy trình cơ bản
trong việc phát huy năng lực sáng tạo:
1) Trải nghiệm cơ bản: trải nghiệm này thuộc bản năng sinh tồn. Trước
một thử thách đơn giản, trẻ có thể tự điều chỉnh hành vi phù hợp không chỉ với
môi trường tự nhiên mà còn với hoàn cảnh xã hội để tồn tại.
2) Trải nghiệm sáng
tạo: trải nghiệm này thuộc
tư duy. Trẻ biết suy nghĩ làm ra một cái gì đó khác đối với nó bằng tất cả sự
hứng thú và say mê. Biểu hiện rõ nhất là từ trò chơi giả bộ hay đóng vai, đến
sáng tạo thực sự, tức tạo ra cái mới, cái độc đáo.
3) Trải nghiệm khám
phá: là một hướng khác của
tư duy. Trẻ tham gia khám khá thế giới bằng quan sát, thí nghiệm và khái quát.
Trải nghiệm này có tính chất chuyên biệt theo con đường của khoa học. Tất nhiên
khoa học cũng rất cần sáng tạo. Những trực giác, tưởng tượng tuổi thơ với những
phát hiện bất ngờ, như trường hợp A. Popov, T. Edison, A.Einstein, đã mở ra
những phát minh khoa học vĩ đại.
Quy trình sáng tạo được biểu
thị như một biện chứng giữa rung động, hứng thú – tưởng tượng đến sản xuất cái
mới.
Trò chơi nói chung,
đặc biệt là trò chơi giả bộ, theo Vygotsky, đối với trẻ như là một nguồn mạch
của hoạt động sáng tạo căn bản. Bởi vì, đóng vai là sự hóa thân vào cái khác để
làm ra cái khác, như hóa thân vào con vật, loài vật, hoặc hóa thân vào người
lớn như một sự trải nghiệm để làm ra cái khác mình. Từ đó, trẻ phát triển sang
hoạt động sáng tạo cao hơn: sáng tạo văn hóa, đóng góp vào sự phát triển văn
hóa chung. Các hoạt động vẽ tranh, chơi nhạc, kịch nghệ… phát triển từ trò chơi
giả bộ.
Trò chơi giả bộ ở trẻ
em như là sự trải nghiệm để phát triển kinh nghiệm đời sống tự nhiên và xã hội,
hiểu biết thế giới bên ngoài và đánh thức tiềm năng bên trong não bộ.
Trò chơi như là phương
tiện trị liệu tâm lí giúp trẻ tự tin và dễ dàng hòa nhập.
Quan điểm của
Vygotsky: Cái trẻ con cần người lớn giúp đỡ hôm nay sẽ là hoạt động của nó
trong ngày mai. Giáo dục kích thích từ vùng phát triển gần đến vùng phát triển
xa.
Điều kiện để trẻ có
được sáng tạo là sự tự do. Hãy tạo ra những khoảng trống cho trẻ phát huy sáng
tạo. Mọi sắp đặt hay ràng buộc đều không kích thích sáng tạo mà chỉ gây ức chế,
trói buộc trẻ em vào lối mòn. Một sáng tạo có thể là một sự ngẫu nhiên, một hứng
thú tình cờ bởi sự tự do của nó.
Trừ sáng tạo ngẫu
nhiên – ngẫu hứng không cần học tập, có thể tổng hợp thành 3 phương pháp kích
thích sáng tạo được đề xuất từ những nhà giáo dục cấp tiến:
1) Brain
Storming: Thuật ngữ này do
Alex Osborn đề xuất và sử dụng trong cuốn sách Sự tưởng tượng được áp
dụng (Applied Imagination) và Năng lực sáng tạo của bạn (Your
Creative Mind). Phương pháp này áp dụng cho từng nhóm nhỏ hoặc cá nhân.
Nghĩa đen là “đột kích vào não bộ” bằng chính những cái đã có, nhưng những cái
ấy hoàn toàn khác lạ đến từ những nơi khác nhau, mang bản sắc khác nhau và đều
được thừa nhận bình đẳng. Tôn trọng những khác biệt và tương tác của những khác
biệt sẽ tạo ra cái mới. Trường hợp Jean-Michel Basquiat, nghệ sĩ da đen người
Mỹ, đã trở thành một ngôi sao nghệ thuật quốc tế khi biết cách sử dụng các ký
hiệu, biểu tượng khác nhau đến từ Haitian, Puerto Rican và những nền văn hóa
khác nhau của người Mỹ gốc Phi theo cách brain storming. Các yếu tố đường nét,
màu sắc, hình dạng mang bản sắc thổ dân được phát triển thành các ký hiệu, biểu
tượng mang tầm quốc tế.
Cũng có thể phát triển
ý tưởng của nhiều người trong một nhóm để tạo ra ý tưởng mới. Chẳng hạn, một
nhóm những người mang ý tưởng khác nhau có thể góp phần tạo ra một bức tranh
hay một câu chuyện một cách ngẫu hứng, người này kế thừa phát triển ý của người
kia, từ đó tạo ra một bức tranh hay câu chuyện bất ngờ ngoài dự định và ngoài
khuôn khổ.
2) Lateral
Thinking: Thuật ngữ này do
Edward de Bono đề xuất trong quyển Lateral Thinking. Nghĩa đen là
suy nghĩ một chiều, một phía. Đúng nghĩa phải là suy nghĩ bên lề, suy nghĩ nằm
ngoài thói quen truyền thống, hoặc vượt ra khỏi sự chi phối bởi cái trung tâm –
chính thống. De Bono định nghĩa: “Lateral Thinking được sử dụng để thay đổi các
quan niệm và nhận thức thay vì cố gắng một cách cứng nhắc với các khái niệm và
nhận thức tương tự”. Vấn đề đơn giản như mở một cánh cửa, hãy thử đưa ra một số
giải pháp mới, ngoại trừ vặn núm cửa. Khi xóa bỏ thói quen thông thường, tự nó
tạo ra một cách tiếp cận mới và sinh ra kết quả mới. Giống như Einstein loại
trừ các định luật của Newton đang thống trị vật lí học cổ điển để tìm ra công
thức khác khi giải thích vũ trụ vật lý của chúng ta. Cái bên lề thường là cái
năng động hơn cái trung tâm, nó xóa bỏ những định kiến đã có để làm ra cái chưa
có, kết quả bất ngờ chưa ai nghĩ tới. Các thiên tài sáng tạo, trong nghệ thuật
cũng như trong khoa học, thường chọn vị thế bên lề, phi chính thống để làm nên
những cuộc cách mạng vĩ đại trong nhận thức và trong sáng tạo. Các bức tranh
của V. Van Gogh hay P. Picasso, đặc biệt, như trường hợp M. Duchamp, những bức
tranh làm từ rác sau đó, là những cách nhìn bên lề dọn đường cho nghệ thuật
hiện đại và hậu hiện đại đi vào cuộc sống.
Cái gì khi hết giá trị
thực dụng tự nó có thể phục sinh giá trị thẩm mỹ, bởi con người khi làm ra mọi
thứ đều nhào nặn từ ý thức thẩm mĩ.
3) Problem
Reversal: Charles Thompson
đề xuất thành phương pháp trong quyển sách Thật là một ý tưởng tuyệt
vời (What a Great
Idea). Phương pháp này còn gọi là đảo ngược hay phản biện
vấn đề. Bất cứ vấn đề nào, dù có sự đồng thuận tuyệt đối, cũng đều có thể lật
ngược để phát hiện ra cái mới như một nhu cầu hủy – tạo trong trò chơi sáng
tạo. Bức tranh Đây không phải là cái tẩu thuốc của Rene Magritte là một cách
lật ngược vấn đề, phá hủy thói quen nhận thức nghệ thuật như một sự phản ánh
hiện thực.
Ngay trong lĩnh vực
khoa học, tưởng tri thức chỉ có chân lý tuyệt đối, trong khi nó vẫn luôn bị
phản biện và đảo lộn. Từ tiên đề Euclid đến phi Euclid, từ thuyết Địa tâm
truyền thống đến Nhật tâm của Copernicus, từ Vũ trụ tuyệt đối của Newton đến
Tương đối luận của Einstein… là những minh chứng cho sự thay đổi tri thức trong
quá trình sáng tạo liên tục của nhân loại. Phản biện là nhu cầu đồng thời là sự
sống còn của thế giới đương đại.
Ken Robinson, nhà tư tưởng
về sự đổi mới và phát triển nguồn nhân lực của thế kỉ XX, tuyên bố: “theo thời
gian những đứa trẻ trở thành người lớn, hầu hết trong số đó đã đánh mất năng
lực sáng tạo của chúng; chúng trở nên lo sợ rằng chúng đã sai – chúng đã không
được giáo dục về sự sáng tạo.”
“Tại sao điều này lại
xảy ra? Việc khuyến khích khả năng sáng tạo có nghĩa là khuyến khích vượt ra
khỏi những quy tắc và các giá trị thông thường đang tồn tại của xã hội. Mục đích
chủ yếu của khả năng sáng tạo là đặt ra những chất vấn về các phương pháp cũ và
tìm kiếm những phương pháp mới và tốt hơn, và chắc chắn những phương pháp không
phải lúc nào cũng phù hợp với thế giới mà chúng ta đang sống. Sự tương quan và
khả năng sáng tạo luôn đi theo những hướng riêng biệt”.
Rõ rằng, sáng tạo không có
chuyện đúng hoặc sai mà chỉ có hứng thú hoặc nhàm chán. Một nền giáo dục chỉ
biết phán xét đúng/ sai chỉ có thể gia tăng nguy cơ tự kỷ – người ta không đủ
tự tin để nghĩ và làm ra cái mới. Mối đe dọa lớn nhất mà con người hiện đại
đang đối mặt không phải là cái sai mà là chính mình, khi những khuôn thước đã
nhồi vào trong não bộ bắt mình làm nô lệ mà mình không biết. Để vượt qua điều
đáng sợ ấy, con người cần tự do trong suy nghĩ, tức nó đang rất cần một nền
giáo dục tích cực, khai phóng.
Chúng ta thấy quan
điểm của John Dewey từ thế kỷ trước được UNESCO phát triển thành vấn đề toàn
cầu hiện nay, rằng giáo dục phải rèn luyện tính tự do, tự chủ của mỗi cá nhân
và kỹ năng tương tác với xã hội; tính tự do, tự chủ và kỹ năng tương tác ấy là
điều kiện thiết yếu của sáng tạo./.
Chu Mộng Long
Đăng nhận xét