TIN MỚI

Thứ Tư, 30 tháng 11, 2016

THẨM MỸ - HỌC SÁNG TẠO THEO TINH THẦN GIÁO DỤC TÍCH CỰC


Triết lý v mt nn giáo dc tích cc
Từ nửa sau thế kỉ 20, thế giới chuyển mình bằng những cuộc cách mạng giáo dục. Các nhà giáo dục cấp tiến chủ trương chuyển giáo dục truyền thụ tri thức sang phát triển năng lực. Nhiều quốc gia Âu – Mỹ đã thực hiện thành công bằng những thực nghiệm và áp dụng đại trà ở tất cả các cấp học. Bắt đầu từ mầm non. Ngay từ khi bước chân vào trường học, trẻ em đã được tiếp xúc với học sáng tạo để hình thành và duy trì thói quen sáng tạo.
Xây dựng một nền giáo dục tích cực là trách nhiệm của mọi thành viên tham gia hoạt động giáo dục. Anne Bamford, triết gia giáo dục Anh, chủ trương giáo dục không có nghĩa là bắt người học phải làm theo những gì đã có trong quá khứ mà hướng dẫn họ làm được những gì cho tương lai. “Trong tương lai, tất cả trẻ em, sinh viên, công dân phải là những người xây dựng kỹ năng của thế kỷ 21, có khả năng tự phát triển kỹ năng của họ. Họ cũng học cách chủ động, đôi khi có thể dám liều, kết hợp các kỹ năng này để tạo ra những sự đổi mới cho xã hội. Giáo dục phải làm cho họ đủ tự tin trong sự sáng tạo của họ để nhìn thấy những thay đổi này là cơ hội có thể đạt được, chứ không phải là những mối đe dọa.”.
Sáng tạo, theo tiếng Latin là creatio, ban đầu gán cho những hành động của Chúa – Đấng toàn năng, và con người chỉ biết bắt chước, làm theo ý Chúa. Nhưng sau đó, ngay trong thời La Mã, và đặc biệt từ thời Phục Hưng đến Khai sáng, con người đã nhận ra khả năng của mình có thể làm ra một cái gì đó mới từ cái đã tồn tại, và cao hơn, con người có thể làm ra những gì chưa có. Khái niệm sáng tạo thay thế hẳn thuật ngữ bắt chước (mimesis) của tư duy Hy Lạp cổ để khẳng định vai trò làm chủ thế giới của con người.
Rousseau, triết gia giáo dục hàng đầu của thời Khai Sáng, đã từng đánh thức nhân loại bằng sự phản tỉnh đối với “nền giáo dục gia công”, “giáo dục nhồi sọ”Ông xem đó là nền giáo dục biến con người thành công cụ hơn là sáng tạo, “những ý tưởng đầu tiên của trẻ là những ý tưởng về quyền lực và sự khuất phục! Nó bị hạ lệnh trước khi biết nói, nó vâng theo trước khi có thể hành động; và đôi khi người ta trừng phạt nó trước khi nó có thể biết lỗi, hoặc nói đúng hơn là có thể phạm lỗi. Như vậy là người ta sớm rót vào trái tim non nớt của nó những đam mê mà sau đó người ta quy tội cho tự nhiên, và sau khi nhọc công làm nó thành tai ác, người ta lại phàn nàn vì thấy nó tai ác!”. Hậu quả tất yếu của phương thức giáo dục ấy là tạo ra một sản phẩm “vừa là nô lệ vừa là bạo chúa, đầy kiến thức và thiếu lương tri, bạc nhược về thể chất cũng như tâm hồn, và bị quăng vào xã hội”. [2, tr.47-48].
Sáng tạo trở thành nhu cầu bức thiết trong bức tranh toàn cầu hóa của thế giới đương đại. Lịch sử chỉ vận động và phát triển nhanh nhờ sáng tạo của mỗi cá nhân. A. Einstein nói: “Vấn đề của ngày hôm nay sẽ không giải quyết bằng những tư duy tương tự đã sản sinh ra các vấn đề từ thời điểm ban đầu”. Có nghĩa là, tri thức không bao giờ là cái hằng định, bất biến, mà nói theo các nhà giải cấu trúc: khác là lí do của tồn tại và phát triển.
Sáng tạo, creativity, trong nghĩa hiện đại nhất của từ, được định nghĩa như một sự làm khác (Making the other). Khác chống lại sự copy và đi theo khuôn mẫu. Khác tạo ra cái mới. Khác sinh ra sự đa dạng. Khác làm thay đổi thế giới và làm giàu cho đời sống tinh thần của nhân loại. Tư tưởng này hàm chứa đầy đủ tinh thần cách mạng của một nền giáo dục tích cực.
Cơ s tâm lý hc – Tri nghim và thc nghim sáng to
Tư tưởng giáo dục hiện đại Âu – Mỹ chủ yếu thừa hưởng từ Tâm Lý học của L.X. Vygotsky và J. Piaget. Vygotsky cũng như Piaget đều thừa nhận trẻ ngay từ đầu đã là con người hoàn chỉnh. Các giác quan và cấu trúc não bộ của trẻ không khác người trưởng thành, nếu không muốn nói, các giác quan và não bộ của chúng nhạy cảm hơn và năng động hơn trước khi bị lão hóa. Bằng chứng, trẻ cảm nhận được những màu sắc, âm thanh, hương vị, nồng độ rất tinh tế với những phát hiện bất ngờ. Trẻ em chỉ khác người trưởng thành ở sự trải nghiệm.
Trải nghiệm là phương thuốc ngăn chặn sự tự kỉ, bởi vì các trải nghiệm trong môi trường tự nhiên và xã hội sẽ giúp cho con người vượt qua nỗi sợ hãi để chiến thắng bản thân và đi đến hòa nhập. Dựa vào năng lực trải nghiệm, Vygotsky phân chia cấu trúc tâm lí trẻ em thành 3 vùng:
1.    Điều tôi có thể làm được ;
2.    Điều tôi có thể làm được với sự giúp đỡ;
3.    Điều tôi chưa thể làm được.

Vùng thuộc điều tôi có thể làm được với sự giúp đỡ gọi là Vùng phát triển gần (Zone of Proximal Development)

Giáo dục hiện đại quan tâm đến việc tác động vào vùng phát triển gần. Nhà giáo dục không can thiệp vào toàn bộ quá trình phát triển nhân cách của trẻ mà chỉ giúp đỡ những điều trẻ đang cần sự giúp đỡ. Phát triển năng lực là kích thích vào sáng tạo, bởi trẻ em không phải là công cụ của văn hóa mà sẽ là chủ thể của văn hóa. Trẻ em tham gia vào tiến trình văn hóa và góp phần tạo ra văn hóa.


Piaget khi đưa ra mô hình 4 giai đoạn phát triển của trẻ, đã cực đoan hơn khi chủ trương, tốt nhất “Hãy để cho trẻ em tự phát triển”, “Đừng động vào chúng!” (Don’t touch them!). Không phải Piaget không có lý khi các kết quả thực nghiệm của ông cho thấy năng lực sáng tạo của trẻ em tồn tại ngay trong bản năng tự nhiên của chúng (giai đoạn 2, representational, phát triển kỹ năng sáng tạo biểu tượng để thay thế cái thực) chứ không phải do giáo dục. Giáo dục chỉ nên tạo môi trường và điều kiện cho trẻ tự phát triển.
Trên cơ sở những lý luận về trực giác của H. Bergson, về tâm thần học của C. Jung, Piaget chứng minh những thứ gọi là “phép mầu” hay “tưởng tượng” trong niềm tin của trẻ thơ là sự thật – sự thật của những phát hiện và sáng tạo bất ngờ. Piaget xác định, có những điều người lớn bị mù lòa thì trẻ nhìn thấy một cách sáng rõ. Trẻ có thể nhìn thấy nhiều màu sắc trong quang phổ của ánh sáng, những thay đổi, biến dạng tinh tế của sự vật, hiện tượng trong trạng thái vận động, kể cả cảm nhận không – thời gian mà người lớn không thể thấy được. Thực nghiệm này ghi nhận những phát hiện bất ngờ ở đứa trẻ, giống như ghi nhận “tưởng tượng” kì diệu của cậu bé Einstein về việc cỡi lên chùm ánh sáng, cảm nhận tốc độ của ánh sáng và sự uốn cong của không – thời gian. [3, tr.170].
Các nhà tâm lí – giáo dục học hiện đại chia ra làm hai loại tư duy
  • Tư duy phân kì (Divergent): Loại tư duy chuyên biệt vào một loại đối tượng. Loại này chính là cha đẻ của siêu hình học, tách các đối tượng ra khỏi các mối quan hệ để nhận thức.
  • Tư duy hội tụ (Convergent): Loại tư duy tổng hợp, xóa bỏ ranh giới giữa các đối tượng, tạo ra các mối quan hệ biện chứng giữa các đối tượng khác loại.

Một cách gọi khác là Tư duy chiều dọc (Vertical) và Tư duy chiều ngang (Horizontal). Tư duy chiều dọc chuyên sâu vào các đối tượng chuyên biệt, đặt chủ thể nhận thức vào khuôn thước của logic và không có giá trị sáng tạo vì nó chỉ phát hiện cái đã có. Tư duy chiều ngang phá vỡ mọi khuôn thước, kết nối các đối tượng khác loại vào trong một mối quan hệ đặc biệt, từ đó khai phóng sáng tạo; những liên tưởng, tưởng tượng bất ngờ, ngẫu nhiên sẽ tạo ra cái mới, cái chưa hề có.


Một ví dụ sơ giản của Bennyé D. Austring & Merete Sørensen. Tư duy chiều dọc không giúp cho nhà sản xuất bia hay nhà thiết kế xây dựng làm ra cái mới ngoài những khuôn mẫu đã có. Tư duy chiều ngang có thể giúp cho một kiến trúc sư nối kết hai cái khác biệt ấy để kiến tạo nên một khách sạn hình lon bia. Kiến trúc này thu hút du khách bởi ấn tượng được tắm mình trong không khí lễ hội, về sự tươi mát và vui vẻ, sự phấn chấn và cuồng nhiệt.


Tương tự: người + cá = người cá, người + sư tử = nhân sư, người + ngựa – nhân mã, người + chim = nhân điểu… là những sáng tạo của tư duy hội tụ hay chiều ngang mà ta thường gọi là tư duy huyền thoại. Hơn cả chục ngàn năm trước, khi con người còn là trẻ thơ đã có những sáng tạo bất hủ như thế!
Tư duy hội tụ hay chiều ngang, trên bề mặt có thể là sự chắp vá ngẫu nhiên, nhưng ở chiều sâu của nó, là sự nối kết sự vận động để tạo ra các ký hiệu, biểu trưng có tính văn hóa. Chuyện về nguồn gốc Tiên – Rồng của người Việt là một sự hợp thành Đất – Nước (Đất là nơi chim về/ Nước là nơi Rồng ở – Nguyễn Khoa Điềm) là những kiểu tư duy độc đáo trong kiến tạo lịch sử của nhân loại trước khi có những kiến giải theo trình tự logic của khoa học.
Sáng tạo văn hóa như là sáng tạo các kí hiệu, biểu trưng
Lịch sử văn hóa là lịch sử của những kiến tạo từ những cá nhân và sự thừa nhận của cộng đồng. Con người đã sáng tạo ra cuộc sống cho chính mình và cộng đồng của mình. Mỗi cá nhân tham dự vào tiến trình văn hóa với tư cách là sản phẩm văn hóa đồng thời lại là chủ thể văn hóa trong sự duy trì và phát triển văn hóa của cộng đồng và nhân loại.
Văn hóa, vì thế, không là cái bất biến, nó ổn định nhưng khả biến bởi quy luật tương tác giữa mới và cũ, giữa cá nhân và cộng đồng. Trong đó, nghệ thuật là trung tâm của các hoạt động thẩm mỹ và văn hóa.
Khoảng 16.000 năm trước đã từng xuất hiện những hình ảnh này tại hang động Lascaux ở Pháp, rất sơ giản nhưng không khác một bức tranh nghệ thuật Ấn tượng.

 Khoảng 9000 năm trước, tại Trung Đông đã có những chiếc mặt nạ bằng đá, công phu đến mức khó tưởng tượng người ta đã mất bao nhiêu thời gian để làm ra những sản phẩm kì công đó. 

Vì sao con người đã làm ra những hình ảnh này? Có nhiều cách trả lời. Đơn giản đó là cách thức duy trì sự tồn tại, bằng cách tái hiện để lưu lại cái đã được tri giác, tưởng tượng, những ấn tượng xúc cảm nào đó, cũng có thể là kiến tạo thế giới của những trải nghiệm, của tín ngưỡng hoặc vui chơi giải trí…
Các hình ảnh này được sinh ra như một sự thay thế. Con người đã làm ra cái ảo để thay thế cho cái thực, làm ra cái có thể hình dung để thay thế cho những thứ khó có thể hình dung. Thế giới ấy gọi là ký hiệu, biểu trưng.
Sự thay thế ấy dễ đưa nhận thức con người rơi vào cái bẫy của sự nhầm lẫn, rằng mọi hình ảnh đều phản ánh một hiện thực nào đó. Rene Magritte, một nghệ sĩ theo chủ nghĩa siêu thực, đã vẽ bức tranh rất giống với sự thực được tri giác. Một cái tẩu thuốc, nhưng ông lại ghi dưới bức tranh rằng, đây không phải là cái tẩu thuốc để giễu cợt những đầu óc đơn giản.
Thông điệp mà Magritte muốn gửi đến cho người xem là gì? Khi ghi chú: đây không phải là cái tẩu thuốc, ông muốn chống lại thói quen của nhận thức, rằng mọi hình ảnh đều quy chiếu giản đơn về một hiện thực được tri giác nào đó. Không có lý do gì con người chỉ biết tạo ra các bản sao từ hiện thực để nhận thức hiện thực. Cho nên, phải nói chính xác rằng, đó chỉ là một bức tranh hay hình ảnh về cái tẩu thuốc. Hình ảnh, tiếng Anh là Image, cũng mang nghĩa là tưởng tượng. Nó chỉ là cái ảo, cái biểu đạt cho một cái được biểu đạt, theo cách nói của F.Saussure, và như vậy nó trở thành cái siêu thực tại và chỉ tồn tại như một ký hiệu, biểu trưng.
Với tư cách là ký hiệu, biểu trưng, chúng ta tiếp nhận thế giới được thay thế ấy bằng tất cả tinh thần của chúng ta chứ không phải cái vật chất ngoài chúng ta. Hình ảnh cái tẩu trên kia chỉ để chiêm ngưỡng, suy ngẫm và khoái cảm về nó chứ không phải để sử dụng như một công cụ của nhu cầu thực dụng. Cũng như thế, người ta có đầy đủ khoái cảm về một tách cà phê buổi sáng qua chiêm ngưỡng bức tranh siêu thực này chứ không còn quy chiếu về một cái tách cà phê có thực

Sáng tạo là hoạt động đặc quyền của con người. Thượng Đế không sáng tạo ra con người mà chính con người đã sáng tạo ra Thượng Đế. Thượng Đế, xét đến cùng cũng chỉ là ký hiệu, biểu trưng. Khi Thượng đế đã là một ký hiệu, biểu trưng, thì mọi sáng tạo của con người không còn đơn thuần là sự mô phỏng thực tại nữa. Nó chống lại thực tại đã và đang có để làm ra một thực tại chưa có như một cách thể hiện quyền lực của chính con người đối với thế giới.
Các hình ảnh quảng cáo, logo, cho đến con số, công thức, ngôn ngữ đều là những ký hiệu, biểu trưng trong quá trình kiến tạo văn hóa của nhân loại. Từ thời cổ đại, các hình ảnh này đã là những ký hiệu, biểu trưng.
Ngay cả cái giống thật nhất (theo chủ nghĩa tả thực) đã luôn là cái không thật. Chúa tạo ra loài người chỉ là một biểu trưng, tức con người đã sáng tạo ra Chúa.


Đến nghệ thuật hiện đại và hậu hiện đại, ảo giác đã phá vỡ toàn bộ thực tại của tri giác

 Theo J. Lacan, bao viền xung quanh đời sống của chúng ta là thế giới của những ký hiệu, biểu trưng mà ta gọi là văn hóa. Thế giới ấy hiện hữu như một sự đại diện, thay thế cho cái vắng mặt là quyền lực và dục vọng: Con người muốn thống trị và kiến tạo lại thế giới như nó muốn. Các ký hiệu, biểu trưng điều hành cuộc sống của chúng ta. Chúng ta sống, hành động và suy nghĩ theo những trật tự đã được sắp đặt từ trước thông qua ký hiệu, biểu trưng. [1, tr.31-40]
Nghịch lí của văn hóa là tạo ra các Cấm kị (Taboo). Văn hóa xuất phát từ sự thật nhưng lại che lấp sự thật bằng những cấm kỵ. Trong điều kiện những cấm kỵ hình thành như một thứ hàng rào dày đặc, con người bị cầm tù và bị sai khiến bởi cái siêu thực tại mà ta gọi là văn hóa kia. Giải cấu trúc chủ trương khai phóng con người bằng trò chơi hủy – tạo liên tục để hướng đến một nền văn hóa đa dạng, tôn trọng những khác biệt.
Thực tại tri giác là cái hữu hạn nhưng sáng tạo của con người là vô hạn. Văn hóa phải nằm trong quy luật hủy – tạo liên tục như một động lực của phát triển. Cái cũ, lỗi thời phải bị phá hủy để kiến tạo nên cái mới, tiến bộ. Sự kiến tạo thường xuất hiện như một đột biến, từ những sáng tạo của cá nhân. Tự do là điều kiện tất yếu của sáng tạo, là nhu cầu bức thiết của thời đại hậu công nghiệp – thời đại kinh tế tri thức.
Giáo dục tích cực
Một nền giáo dục nhồi sọ, gồm quá nhiều những cấm kỵ, chỉ có thể tạo ra lối mòn hoặc làm tê liệt sáng tạo. Triết gia M. Foucault khẳng định, tri thức thường là sản phẩm được hợp thức hóa bởi quyền lực và khi được hợp thức hóa bởi quyền lực, tri thức cầm tù con người và biến con người thành công cụ của nó. [6, tr.208].
Giáo dục tích cực chủ trương chuyển truyền thụ tri thức thành phát triển năng lực bằng cách tạo điều kiện cho người học tham gia trải nghiệm thực tiễn. Thực tiễn mới là tri thức đích thực khai phóng mọi năng lực sáng tạo.
Trẻ em cần phát triển năng lực chứ không phải cần sự hoàn thiện, bởi bản thân một đứa trẻ đã là con người hoàn thiện. Có nghĩa là, giáo dục không mang nghĩa uốn nắn trẻ em theo khuôn mẫu có sẵn mà kích thích sự phát triển theo nhiều hướng khác nhau. Điều giáo dục cần quan tâm là
1.    Trẻ em làm được điều gì?
2.    Điều gì trẻ em cần sự giúp đỡ của người lớn?
3.    Điều gì trẻ em cần làm một mình?
Quan sát hoạt động trẻ em, dễ thấy, ngay từ khi bước ra cuộc đời, mọi hoạt động của trẻ đã là hoạt động trải nghiệm. Quan sát này có thể gợi ý cho giáo dục một quy trình cơ bản trong việc phát huy năng lực sáng tạo:
1) Trải nghiệm cơ bản: trải nghiệm này thuộc bản năng sinh tồn. Trước một thử thách đơn giản, trẻ có thể tự điều chỉnh hành vi phù hợp không chỉ với môi trường tự nhiên mà còn với hoàn cảnh xã hội để tồn tại.
2) Trải nghiệm sáng tạo: trải nghiệm này thuộc tư duy. Trẻ biết suy nghĩ làm ra một cái gì đó khác đối với nó bằng tất cả sự hứng thú và say mê. Biểu hiện rõ nhất là từ trò chơi giả bộ hay đóng vai, đến sáng tạo thực sự, tức tạo ra cái mới, cái độc đáo.
3) Trải nghiệm khám phá: là một hướng khác của tư duy. Trẻ tham gia khám khá thế giới bằng quan sát, thí nghiệm và khái quát. Trải nghiệm này có tính chất chuyên biệt theo con đường của khoa học. Tất nhiên khoa học cũng rất cần sáng tạo. Những trực giác, tưởng tượng tuổi thơ với những phát hiện bất ngờ, như trường hợp A. Popov, T. Edison, A.Einstein, đã mở ra những phát minh khoa học vĩ đại.
Quy trình sáng tạo được biểu thị như một biện chứng giữa rung động, hứng thú – tưởng tượng đến sản xuất cái mới.

 Trò chơi giả bộ được xem như một sự tham dự vào tiến trình của đời sống và văn hóa. Trẻ thường đóng vai con vật, loài vật như một trải nghiệm với môi trường tự nhiên để hòa nhập vào tự nhiên. Chúng cũng hay đóng vai người lớn như một trải nghiệm đời sống xã hội để hòa nhập vào môi trường xã hội.
Trò chơi nói chung, đặc biệt là trò chơi giả bộ, theo Vygotsky, đối với trẻ như là một nguồn mạch của hoạt động sáng tạo căn bản. Bởi vì, đóng vai là sự hóa thân vào cái khác để làm ra cái khác, như hóa thân vào con vật, loài vật, hoặc hóa thân vào người lớn như một sự trải nghiệm để làm ra cái khác mình. Từ đó, trẻ phát triển sang hoạt động sáng tạo cao hơn: sáng tạo văn hóa, đóng góp vào sự phát triển văn hóa chung. Các hoạt động vẽ tranh, chơi nhạc, kịch nghệ… phát triển từ trò chơi giả bộ.
Trò chơi giả bộ ở trẻ em như là sự trải nghiệm để phát triển kinh nghiệm đời sống tự nhiên và xã hội, hiểu biết thế giới bên ngoài và đánh thức tiềm năng bên trong não bộ.
Trò chơi như là phương tiện trị liệu tâm lí giúp trẻ tự tin và dễ dàng hòa nhập.
Quan điểm của Vygotsky: Cái trẻ con cần người lớn giúp đỡ hôm nay sẽ là hoạt động của nó trong ngày mai. Giáo dục kích thích từ vùng phát triển gần đến vùng phát triển xa.
Điều kiện để trẻ có được sáng tạo là sự tự do. Hãy tạo ra những khoảng trống cho trẻ phát huy sáng tạo. Mọi sắp đặt hay ràng buộc đều không kích thích sáng tạo mà chỉ gây ức chế, trói buộc trẻ em vào lối mòn. Một sáng tạo có thể là một sự ngẫu nhiên, một hứng thú tình cờ bởi sự tự do của nó.
Trừ sáng tạo ngẫu nhiên – ngẫu hứng không cần học tập, có thể tổng hợp thành 3 phương pháp kích thích sáng tạo được đề xuất từ những nhà giáo dục cấp tiến:
1) Brain Storming: Thuật ngữ này do Alex Osborn đề xuất và sử dụng trong cuốn sách Sự tưởng tượng được áp dụng (Applied Imagination) và Năng lực sáng tạo của bạn (Your Creative Mind). Phương pháp này áp dụng cho từng nhóm nhỏ hoặc cá nhân. Nghĩa đen là “đột kích vào não bộ” bằng chính những cái đã có, nhưng những cái ấy hoàn toàn khác lạ đến từ những nơi khác nhau, mang bản sắc khác nhau và đều được thừa nhận bình đẳng. Tôn trọng những khác biệt và tương tác của những khác biệt sẽ tạo ra cái mới. Trường hợp Jean-Michel Basquiat, nghệ sĩ da đen người Mỹ, đã trở thành một ngôi sao nghệ thuật quốc tế khi biết cách sử dụng các ký hiệu, biểu tượng khác nhau đến từ Haitian, Puerto Rican và những nền văn hóa khác nhau của người Mỹ gốc Phi theo cách brain storming. Các yếu tố đường nét, màu sắc, hình dạng mang bản sắc thổ dân được phát triển thành các ký hiệu, biểu tượng mang tầm quốc tế.
Cũng có thể phát triển ý tưởng của nhiều người trong một nhóm để tạo ra ý tưởng mới. Chẳng hạn, một nhóm những người mang ý tưởng khác nhau có thể góp phần tạo ra một bức tranh hay một câu chuyện một cách ngẫu hứng, người này kế thừa phát triển ý của người kia, từ đó tạo ra một bức tranh hay câu chuyện bất ngờ ngoài dự định và ngoài khuôn khổ.
2) Lateral Thinking: Thuật ngữ này do Edward de Bono đề xuất trong quyển Lateral Thinking. Nghĩa đen là suy nghĩ một chiều, một phía. Đúng nghĩa phải là suy nghĩ bên lề, suy nghĩ nằm ngoài thói quen truyền thống, hoặc vượt ra khỏi sự chi phối bởi cái trung tâm – chính thống. De Bono định nghĩa: “Lateral Thinking được sử dụng để thay đổi các quan niệm và nhận thức thay vì cố gắng một cách cứng nhắc với các khái niệm và nhận thức tương tự”. Vấn đề đơn giản như mở một cánh cửa, hãy thử đưa ra một số giải pháp mới, ngoại trừ vặn núm cửa. Khi xóa bỏ thói quen thông thường, tự nó tạo ra một cách tiếp cận mới và sinh ra kết quả mới. Giống như Einstein loại trừ các định luật của Newton đang thống trị vật lí học cổ điển để tìm ra công thức khác khi giải thích vũ trụ vật lý của chúng ta. Cái bên lề thường là cái năng động hơn cái trung tâm, nó xóa bỏ những định kiến đã có để làm ra cái chưa có, kết quả bất ngờ chưa ai nghĩ tới. Các thiên tài sáng tạo, trong nghệ thuật cũng như trong khoa học, thường chọn vị thế bên lề, phi chính thống để làm nên những cuộc cách mạng vĩ đại trong nhận thức và trong sáng tạo. Các bức tranh của V. Van Gogh hay P. Picasso, đặc biệt, như trường hợp M. Duchamp, những bức tranh làm từ rác sau đó, là những cách nhìn bên lề dọn đường cho nghệ thuật hiện đại và hậu hiện đại đi vào cuộc sống.
Cái gì khi hết giá trị thực dụng tự nó có thể phục sinh giá trị thẩm mỹ, bởi con người khi làm ra mọi thứ đều nhào nặn từ ý thức thẩm mĩ.
3) Problem Reversal: Charles Thompson đề xuất thành phương pháp trong quyển sách Thật là một ý tưởng tuyệt vời (What a Great Idea). Phương pháp này còn gọi là đảo ngược hay phản biện vấn đề. Bất cứ vấn đề nào, dù có sự đồng thuận tuyệt đối, cũng đều có thể lật ngược để phát hiện ra cái mới như một nhu cầu hủy – tạo trong trò chơi sáng tạo. Bức tranh Đây không phải là cái tẩu thuốc của Rene Magritte là một cách lật ngược vấn đề, phá hủy thói quen nhận thức nghệ thuật như một sự phản ánh hiện thực.
Ngay trong lĩnh vực khoa học, tưởng tri thức chỉ có chân lý tuyệt đối, trong khi nó vẫn luôn bị phản biện và đảo lộn. Từ tiên đề Euclid đến phi Euclid, từ thuyết Địa tâm truyền thống đến Nhật tâm của Copernicus, từ Vũ trụ tuyệt đối của Newton đến Tương đối luận của Einstein… là những minh chứng cho sự thay đổi tri thức trong quá trình sáng tạo liên tục của nhân loại. Phản biện là nhu cầu đồng thời là sự sống còn của thế giới đương đại.
Ken Robinson, nhà tư tưởng về sự đổi mới và phát triển nguồn nhân lực của thế kỉ XX, tuyên bố: “theo thời gian những đứa trẻ trở thành người lớn, hầu hết trong số đó đã đánh mất năng lực sáng tạo của chúng; chúng trở nên lo sợ rằng chúng đã sai – chúng đã không được giáo dục về sự sáng tạo.”
“Tại sao điều này lại xảy ra? Việc khuyến khích khả năng sáng tạo có nghĩa là khuyến khích vượt ra khỏi những quy tắc và các giá trị thông thường đang tồn tại của xã hội. Mục đích chủ yếu của khả năng sáng tạo là đặt ra những chất vấn về các phương pháp cũ và tìm kiếm những phương pháp mới và tốt hơn, và chắc chắn những phương pháp không phải lúc nào cũng phù hợp với thế giới mà chúng ta đang sống. Sự tương quan và khả năng sáng tạo luôn đi theo những hướng riêng biệt”.
Rõ rằng, sáng tạo không có chuyện đúng hoặc sai mà chỉ có hứng thú hoặc nhàm chán. Một nền giáo dục chỉ biết phán xét đúng/ sai chỉ có thể gia tăng nguy cơ tự kỷ – người ta không đủ tự tin để nghĩ và làm ra cái mới. Mối đe dọa lớn nhất mà con người hiện đại đang đối mặt không phải là cái sai mà là chính mình, khi những khuôn thước đã nhồi vào trong não bộ bắt mình làm nô lệ mà mình không biết. Để vượt qua điều đáng sợ ấy, con người cần tự do trong suy nghĩ, tức nó đang rất cần một nền giáo dục tích cực, khai phóng.
Chúng ta thấy quan điểm của John Dewey từ thế kỷ trước được UNESCO phát triển thành vấn đề toàn cầu hiện nay, rằng giáo dục phải rèn luyện tính tự do, tự chủ của mỗi cá nhân và kỹ năng tương tác với xã hội; tính tự do, tự chủ và kỹ năng tương tác ấy là điều kiện thiết yếu của sáng tạo./.
Chu Mộng Long

Đăng nhận xét

 
Copyright © 2016 Braintrust Sức mạnh cộng đồng